Ấn Tượng Sai Lầm

Chương 46 :

Ngày đăng: 15:10 19/04/20


Một trong những nguyên tắc vàng của Anna khi cô thức dậy vào buổi sáng là không kiểm tra tin nhắn trước khi đã tắm rửa, mặc quần áo, ăn sáng và đọc tin trên tờ Thời báo New York. Nhưng vì cô đã phá vỡ rất nhiều những nguyên tắc vàng của mình trong hai tuần qua, lần này Anna đã kiểm tra tin nhắn thậm chí từ trước khi cô ngồi dậy khỏi giường. Một tin nhắn của Người Rình rập làm cô mỉm cười, và một tin nhắn của ông Nakamura làm cô cau mày - chỉ có vài từ, “Khẩn cấp, gọi lại ngay. Nakamura”.



Anna quyết định phải tắm trước khi gọi cho ông ta. Khi những dòng nước lạnh bắt đầu xối trên người Anna, cô nghĩ về nội dung tin nhắn của ông Nakamura. Cụm từ “Khẩn cấp” luôn khiến cô nghĩ đến những tình huống xấu nhất. jjj Anna đã tỉnh hẳn khi cô bước ra khỏi vòi tắm. Tim cô đập mạnh như thể cô vừa chạy xong đường chạy buổi sáng. Cô ngồi xuống đuôi giường và cố gắng giữ bình tĩnh.



Khi Anna cảm thấy nhịp tim mình đã trở lại bình thường, cô quay số của Nakamura ở Tokyo.



“Hai, Shacho-Shito desu”, cô nhân viên tiếp tân nói.



“Xin cho nói chuyện với ông Nakamura”.



“Xin cho biết tôi phải báo với ông ấy là ai đang gọi?”.



“Anna Petrescu”.



“À, vâng, ông ấy đang chờ điện thoại của bà”. Tim Anna đập mạnh hơn. “Xin chào, Tiến sỹ Petrescu, chúc cô một buổi sáng tốt lành”.



“Xin chào, ngài Nakamura, chúc ngài một buổi chiều tốt lành”, Anna nói và ước gì mình có thể nhìn thấy khuôn mặt của ông ta để biết rõ số phận của mình được nhanh hơn.



“Gần đây tôi vừa có một cuộc nói chuyện rất khó chịu với ông chủ cũ của cô là Bryce Fenston”, Nakamura tiếp tục. “Và tôi e rằng” - Anna gần như tức thở - “điều đó đã khiến tôi phải đánh giá lại” - cô cảm thấy mình sắp phát sốt - “nhận xét của tôi về con người ông ta. Tôi muốn cho cô biết rằng mấy hôm nay mỗi ngày cô đã khiến tôi mất 500 đôla vì tôi đã đặt cọc năm triệu đôla theo yêu cầu của cô tại chỗ các luật sư của tôi ở London. Vì vậy tôi muốn nhìn thấy bức tranh Van Gogh càng sớm càng tốt.”



“Tôi có thể bay sang London trong vài ngày tới”. Anna khẳng định với ông ta, “nhưng đầu tiên tôi phải sang Anh quốc để lấy bức tranh đã”.



“Có lẽ không cần thiết phải làm thế”, Nakamura nói. “Tôi có một cuộc gặp với công ty Corns Steel tại London vào ngày thứ Tư, và sẽ sẵn lòng đến trước hẹn một ngày, nếu chuyện đó không gây phiền phức cho Phu nhân Arabella”.



“Chắc chắn mọi chuyện sẽ tốt đẹp”, Anna nói. “Tôi cần phải liên lạc với Arabella, và sau đó sẽ gọi cho thư ký của ông để thống nhất các chi tiết. Lâu đài Wentworth chỉ cách sân bay Heathrow ba mươi phút”.


“Nhưng học sinh nào cũng biết Van Gogh nhìn vào gương khi vẽ chân dung của chính mình, đó là lý do tại sao chiếc tai bị băng là tai phải”. Fenston ngồi sụp xuống chiếc ghế bên bàn làm việc của mình, quay lưng lại phía bức tranh. Savage bước lại phía trước và bắt đầu xem xét bức tranh kỹ hơn. “Điều làm tôi ngạc nhiên là”, ông ta nói thêm, “dù bức tranh này là giả, có ai đó đã đưa nó vào khung tranh thật”. Fenston tím mặt vì giận dữ. “Và tôi phải thú nhận rằng”, Savage tiếp tục, “người đã vẽ nên bức tranh giả này là một hoạ sỹ tài năng”, ông ta dừng lại. “Tuy nhiên, tôi chỉ có thể định giá bức tranh này ở tầm mười nghìn đôla, và có lẽ” - ông ta lưỡng lự - “10.000 đôla nữa cho khung tranh, và như vậy mức phí 200.000 đôla một năm là hơi quá cao”. Fenston vẫn không nói gì. “Tôi xin lỗi vì đã nói ra những tin xấu như vậy”, Savage kết luận và bước tới trước mặt Fenston. “Tôi chỉ hy vọng là ông đã không phải chia tay với một món tiền quá lớn, và, nếu không may ông đã bỏ tiền ra, ông biết ai phải chịu trách nhiệm về sự lừa dối này”.



“Gọi Leapman cho tôi”, Fenston hét lên, Tina chạy vội sang văn phòng chủ tịch.



“Ông ấy vừa mới tới”, chị nói. “Tôi sẽ nói với ông ấy rằng ngài cần gặp”.



Cả nhân viên của hãng Lloyd và hãng Christie đều hiểu rằng đây không phải là lúc ngồi lại để kiếm một cốc cà phê. Họ yên lặng rút lui, cũng là lúc Leapman lao vào phòng.



“Đấy là đồ giả”, Fenston la lên.



Leapman nhìn chằm chằm bức tranh một lúc trước khi đưa ra nhận xét. “Và cả ngài lẫn tôi đều biết ai là người phải chịu trách nhiệm”, cuối cùng ông ta nói.



“Petrescu”, Fenston rít lên.



“Đấy là chưa kể đến kẻ đồng loã của cô ta, kẻ đã cung cấp thông tin cho cô ta kể từ khi cô ta bị ngài sa thải”.



“Ông nói đúng”, Fenston nói và quay về phía chiếc cánh cửa đang mở rồi lại rít lên “Tina”. Một lần nữa, chị lại chạy sang văn phòng chủ tịch.



“Cô có thấy bức tranh kia không?”, ông ta nói, và vẫn chưa thể quay lại nhìn bức tranh. Tina gật đầu, nhưng không nói gì. “Tôi muốn cô cho nó vào thùng, và gửi ngay tới Lâu đài Wentworth, cùng với một yêu cầu...”.



“Trả ngay ba mươi hai triệu 892.000 đôla”, Leapman nói.



“Và sau đó”, Fenston nói, “cô có thể thu dọn đồ đạc của mình và rời khỏi nơi này trong vòng mười phút, bởi vì cô đã bị sa thải, đồ chó cái”.



Tina bắt đầu run khi Fenston đứng dậy và nhìn cô chằm chằm. “Nhưng trước khi rời đi, tôi còn một công việc cuối cùng cho cô”. Tina không thể cử động. “Hãy nói với Petrescu, bạn của cô rằng tôi vẫn chưa gạch tên cô ta khỏi danh sách những người mất tích, được cho là đã chết”.