Ấn Tượng Sai Lầm
Chương 49 :
Ngày đăng: 15:10 19/04/20
Jack dừng xe lại trên phố Broad lúc 9 giờ 30 phút. Anh bật radio lên và lắng nghe bài “Cousin Brucie” trên sóng FM 101.1, trong khi anh ngồi ngả người ra sau để chờ Leapman. Điểm hẹn của họ là do Leapman chọn, và ông ta đã yêu cầu người của FBI chờ mình trong khoảng thời gian từ 10 đến 11 giờ, vì ông ta hy vọng tới lúc đó, ông ta đã chụp đủ các tài liệu làm bằng chứng để buộc tội Fenston.
Jack đang thiu thiu trong tiếng nhạc thì nghe thấy tiếng còi hú. Giống như tất cả những người làm công việc thực thi pháp luật khác, anh có thể phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa tiếng còi hú của xe cảnh sát, xe cứu thương và xe cứu hỏa chỉ trong vòng một tích tắc. Đây là tiếng hú của xe cứu thương, có lẽ là trên phố St Vincent.
Anh nhìn đồng hồ: 11 giờ 15 phút. Leapman đã muộn, nhưng ông ta đã cảnh báo trước với Jack rằng có thể cần phải chụp ảnh hàng trăm tài liệu, vì vậy không nên nóng ruột nếu ông ta có đến muộn vài phút. Các nhân viên kỹ thuật của FBI đã hướng dẫn Leapman cách sử dụng chiếc máy ảnh công nghệ cao để ông ta có thể chụp được những bức ảnh tốt nhất. Nhưng đó là trước khi có cú điện thoại kia. Leapman đã gọi tới văn phòng của Jack vào lúc vừa sau bảy giờ để báo rằng Fenston đã nói với ông ta một chuyện có giá trị hơn nhiều so với bất kỳ tài liệu nào. Nhưng ông ta không muốn tiết lộ tin tức đó trên điện thoại. Tín hiệu đường dây tắt trước khi Jack kịp căn dặn ông ta. Jack biết rằng những người đang muốn được hưởng sự khoan hồng của pháp luật thường tuyên bố rằng mình có những thông tin mới giúp làm sáng tỏ vụ việc, và vì vậy FBI cần phải cân nhắc lại mức án tù của họ. Anh biết sếp của mình sẽ không đồng ý giảm nhẹ tội cho Leapman nếu ông ta không kiếm được những bằng chứng mới để chứng minh mối quan hệ trực tiếp giữa Fenston và Krantz.
Tiếng còi hú mỗi lúc một to hơn.
Jack quyết định ra khỏi xe và vận động chân tay một chút. Chiếc áo khoác của anh có vẻ quá nhàu nát. Anh đã mua nó từ cửa hàng Brooks Brothers vào cái thời khi anh muốn mọi người biết rằng mình là một người bên an ninh, nhưng khi anh càng được thăng cấp thì anh lại càng muốn người ta đừng biết về điều đó. Nếu anh được đề bạt làm trưởng phòng, thậm chí có thể anh sẽ mua một chiếc áo khoác mới, loại áo khoác giúp anh trông giống với một luật sư hay một chủ nhà băng, và cha anh hẳn sẽ hài lòng hơn.
Anh nghĩ tới Fenston, kẻ giờ này đang rao giảng về Trách nhiệm Đạo đức trước các Chủ nhà băng Hiện đại, rồi anh nghĩ tới Anna, người lúc này đang trên đường bay qua Đại Tây Dương để tới London gặp Nakamura. Anna đã gửi một tin nhắn tới điện thoại di động của anh, cho biết cô đã hiểu tại sao Tina lại nhận làm thư ký riêng của Fenston, và bằng chứng nằm ở ngay trước mắt cô trong suốt thời gian qua. Đường dây đang bận khi cô gọi, nhưng Anna cho biết cô sẽ gọi lại vào sáng ngày mai. Lúc đó chắn hẳn là khi Leapman đang nói chuyện với anh. Cái thằng cha khốn kiếp ấy. Jack đứng trên vỉa hè của một đường phố New York vào lúc nửa đêm, mệt mỏi và đói cồn cào, để chờ nhận một chiếc máy ảnh. Cha anh nói đúng. Nhẽ ra anh nên theo nghề luật thì hơn.
Tiếng còi hú lúc này chỉ còn cách hai tòa nhà.
Jack sải bước đi về phía cuối phố và ngước nhìn lên tòa nhà nơi Leapman làm việc, ở đâu đó trên tầng ba mươi hai. Có một dãy ánh đèn sáng chói ở khoảng giữa tòa nhà, tất cả các cửa sổ ở những tầng khác đều tối đen. Jack bắt đầu đến các tầng nhà từ dưới lên, nhưng khi anh đếm đến tầng thứ mười tám, anh không còn dám chắc nữa, và khi anh đếm đến tầng thứ ba mươi hai, đó có thể là tầng có dẫy đèn sáng kia. Nhưng không thể có chuyện đó, bởi vì trên tầng làm việc của Leapman, giờ này nếu có ánh đèn thì chỉ có một khung cửa sổ sáng mà thôi. Chắc chắn ông ta không dại gì mà đi thu hút sự chú ý về mình.
“Vào cái thời khi tôi còn là một nhà buôn tranh”, Mark trả lời, “trước khi tôi về làm cho Sotheby, tiền hoa hồng là 10% nếu giá bán thấp hơn 1 triệu. Từ 1 triệu trở lên, tôi sẽ thương lượng với người bán”.
“Và anh sẽ nêu ra mức phí nào, nếu tôi yêu cầu anh bán bức tranh Van Gogh cho tôi?”.
Mark cảm thấy mừng vì Arabella không thể trông thấy vẻ mặt của anh ta lúc đó. Sau khi đã trấn tĩnh lại, anh ta chờ một lát rồi mới nêu ra một con số, trước khi vội nói thêm, “nếu bà cho phép Sotheby đưa bức tranh ấy ra đấu giá, bà sẽ không phải trả một đồng tiền phí nào, và bà sẽ nhận được toàn bộ tiền đấu giá”.
“Vậy các anh kiếm lời bằng cách nào?”, Arabella hỏi.
“Chúng tôi yêu cầu người mua trả một mức phí nào đó”, Jack giải thích.
“Tôi đã có người mua”, Arabella nói, “nhưng cảm ơn anh vì lời khuyên nhé”.