Ấn Tượng Sai Lầm

Chương 6 :

Ngày đăng: 15:09 19/04/20


Jack Delaney vẫn chưa biết chắc Anna Petrescu có phải là một kẻ tội phạm hay không.



Đặc vụ Jack Delaney của FBI nhìn theo Anna khi cô biến vào đám đông trên đường quay trở lại Thornton House, rồi anh chạy chầm chậm qua Sheep Meadow về phía hồ. Anh nghĩ về người phụ nữ mà anh đang điều tra trong sáu tuần qua. Cô ta không biết rằng một cuộc điều tra nữa cũng đang nhằm vào sếp của cô, một kẻ mà Jack tin chắc rằng đích thực là một tên tội phạm.



Đã gần một năm trôi qua kể từ khi viên sỹ quan phụ trách của Jack gọi anh tới văn phòng của ông ta và giao cho anh một đội điều tra gồm 8 nhân viên với một nhiệm vụ mới. Jack phải điều tra ba vụ án mạng khủng khiếp tại ba châu lục và cả ba vụ này đều có cùng một điểm chung: nạn nhân bị giết chết sau khi vay một khoản tiền lớn từ ngân hàng Fenston Finance. Jack nhanh chóng đi đến kết luận rằng các vụ giết người này đều được lên kế hoạch từ trước và được thực hiện bởi cùng một kẻ sát thủ chuyên nghiệp.



Jack chạy ngang qua Shakespeare Garden trên đường quay trở lại căn hộ nhỏ của anh tại West Side. Anh vừa hoàn chỉnh hồ sơ về một người mà Fenston mới tuyển dụng gần đây, dù anh chưa biết chắc cô ta là tòng phạm hay chỉ là một người ngây thơ vô tội.



Jack bắt đầu bằng lý lịch gia đình của Anna Petrescu và phát hiện ra rằng bác của cô ta, George Petrescu, đã rời bỏ Romania và di cư tới Mỹ vào năm 1968, và định cư tại Danville, bang Illinois. Chỉ vài tuần sau khi Ceausescu tự phong mình làm tổng thống, George đã viết thư cho em trai và khuyên em mình sang Mỹ. Khi Ceausescu tuyên bố biến Romania thành một nước xã hội chủ nghĩa và phong vợ mình làm Phó Tổng thống, George lại viết thư cho em và giục giã ông này mang cả cô con gái Anna di cư sang Mỹ.



Cho dù cha mẹ của Anna không chịu rời bỏ quê hương, họ đã thu xếp để đưa cô con gái 17 tuổi của mình vượt biên trái phép sang Mỹ vào năm 1987. Tại đây, cô sống với bác và được hứa hẹn là sẽ trở về Romania ngay sau khi Ceausescu bị lật đổ.



Anna đã không chịu trở về nước nữa. Cô thường xuyên viết thư về nhà, nài nỉ cha mẹ sang Mỹ với mình, nhưng chẳng mấy khi cô nhận được hồi âm. Hai năm sau, cô được biết là cha mình đã bị bắn chết trong một cuộc giao tranh ở biên giới, khi ông ta tham gia vào một cuộc binh biến nhằm lật đổ kẻ độc tài. Mẹ cô ta nhắc đi nhắc lại rằng bà ta sẽ không bao giờ rời bỏ quê hương, với lý do là, “Ai sẽ chăm sóc phần mộ của cha con?”



Tất cả những thông tin này đã được đội điều tra của Jack phát hiện thấy trong một bài luận của Anna được đăng trên tạp chí của trường trung học nơi cô ta theo học ngày trước. Một bạn học của cô ta cũng đã viết về cô bạn gái dịu dàng có mái tóc vàng và đôi mắt xanh, một cô gái đến từ một xứ sở nào đó gọi là Bucharest và gần như chẳng nói được một từ tiếng Anh nào. Đến cuối năm thứ hai ở trường, Anna đã trở thành một biên tập viên của tạp chí nội bộ của nhà trường. Và tờ tạp chí ấy đã cung cấp cho đội điều tra của Jack những thông tin quý giá đó.



Sau khi tốt nghiệp trung học, Anna đã giành được một suất học bổng để tới trường đại học Williams ở bang Massachusetts nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật. Tiếp đến, cô ta tới trường đại học Pennsynvania để tiếp tục nghiên cứu và làm luận án tiến sỹ. Đề tài mà cô ta lựa chọn là Phong trào Fauve. Jack đã tra từ điển Webster để tìm hiểu về ý nghĩa của cụm từ này. Cuốn từ điển cho anh biết cụm từ ấy có liên quan tới một nhóm hoạ sỹ do Matisse, Derain và Vlaminck đứng đầu. Các hoạ sỹ thuộc phong trào này muốn xoá bỏ những ảnh hưởng của trường phái Ấn tượng và hướng tới việc sử dụng những màu sắc tươi sáng và đối lập nhau. Qua việc tìm hiểu này, anh cũng được biết thêm khi còn trẻ, Picasso đã rời Tây Ban Nha để gia nhập nhóm này tại Paris ra sao. Những bức tranh của hoạ sỹ trẻ Picasso đã khiến công chúng bị sốc và được tờ Paris Match mô tả là “Sự tỉnh táo đã trở lại”. Điều đó càng khiến Jack muốn tìm đọc thêm về Vuillard, Luce và Camoin - những hoạ sỹ mà anh chưa từng nghe nói đến. Nhưng phải chờ đến lúc rảnh rỗi đã, trừ phi điều đó có thể giúp anh lần ra bằng chứng để tóm cổ Fenston.


Mãi tới hơn 7 giờ Tina Forster mới thức dậy. Cuộc hẹn của chị với bác sỹ nha khoa phải đến 8:30, và Fenston đã nói rõ rằng chị không cần phải đi làm đúng giờ vào sáng hôm đó. Điều này bao giờ cũng có nghĩa là ông ta có một cuộc hẹn bên ngoài thành phố, hoặc là ông ta sắp đuổi việc một ai đó. Nếu đấy là chuyện đuổi việc, ông ta không muốn thấy Tina lảng vảng quanh văn phòng và tỏ ý thông cảm với người vừa bị sa thải. Chị biết rằng người bị đuổi không thể là Leapman, bởi vì Fenston sẽ không thể sống sót nếu thiếu con người đó, và dù chị rất muốn thấy Barry Steadman bị tống khứ khỏi nơi này, chị không dám mơ đến điều đó, bởi vì anh ta chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào để nịnh hót vị chủ tịch, một con người thích những lời nịnh hót chẳng khác gì một miếng bọt biển nằm trên bãi biển chờ đợi những con sóng triều.



Tina nằm trong bồn tắm - một sự xa xỉ mà chị thường chỉ dám ban tặng cho mình vào những kỳ nghỉ cuối tuần - và băn khoăn tự hỏi khi nào thì sẽ đến lượt mình bị đuổi việc. Chị đã làm trợ lý riêng cho Fenston được hơn một năm, và cho dù chị khinh bỉ con người này cũng như tất cả những gì mà ông ta theo đuổi, chị vẫn cố để ông ta không thể thiếu được mình. Tina biết chị không thể tính đến chuyện bỏ công ty này trước khi...



Chuông điện thoại đổ trong phòng ngủ của chị, nhưng chị chẳng vội trả lời. Chị đoán chắc là Fenston gọi để hỏi xem một hồ sơ nào đó được cất ở đâu hoặc cũng có thể là hỏi số điện thoại của ai đó. Thường thì câu trả lời sẽ là “trên bàn làm việc trước mặt ngài”. Chị băn khoăn không hiểu đó có thể là điện thoại của Anna không. Đó là người bạn duy nhất của chị kể từ khi chị chuyển từ West Coast đến đây. Không thể nào, chị kết luận, bởi vì Anna sẽ phải trình bày báo cáo của mình trước vị chủ tịch vào lúc 8 giờ và có thể là ngay lúc này đây đang giải thích rõ từng chi tiết đến lần thứ hai mươi.



Tina mỉm cười khi chị bước ra khỏi buồng tắm và choàng quanh mình một tấm khăn tắm. Chị đi qua hành lang rồi vào phòng ngủ của mình.



Mỗi khi có một vị khách nào đó ngủ lại qua đêm trong căn hộ chật chội của Tina, họ phải ngủ chung giường với chị hoặc ngủ trên ghế sô pha. Không còn lựa chọn nào khác, bởi căn hộ của chị chỉ có một phòng ngủ. Gần đây chẳng có mấy ai ở lại, không phải vì thiếu lời mời. Nhưng sau những gì mà chị đã trải qua trong quá trình làm việc với Fenston, Tina cảm thấy mình không còn có thể tin cậy được ai nữa. Gần đây chị đã muốn tâm sự chuyện này với Anna, nhưng rồi nó vẫn là một bí mật mà chị không dám chia sẻ cùng ai.



Tina vén rèm lên cho dù đang vào tháng Chín, một buổi sáng trong lành với những tia sáng rực rỡ khiến chị nghĩ rằng mình có thể mặc một bộ váy mùa hè. Nó thậm chí có thể sẽ giúp chị cảm thấy thoải mái hơn khi phải nhìn vào chiếc khoan của vị nha sỹ.



Sau khi mặc xong quần áo và ngắm nhìn lại mình trong gương, Tina vào bếp và pha cho mình một ly cà phê. Chị không được phép ăn sáng, dù chỉ là một mẩu bánh mỳ - đó là mệnh lệnh của người trợ lý phòng khám nha khoa - rồi chị bật ti vi lên để xem tin tức buổi sáng. Chẳng có gì đặc biệt. Một vụ đánh bom liều chết ở khu Bờ Tây, tiếp đến là chuyện một phụ nữ nặng ba trăm hai mươi pao đang kiện hãng McDonald vì đã hủy hoại cuộc sống tình dục của bà ta.



Khi chị vừa định tắt ti vi thì một cầu thủ bóng đá nổi tiếng xuất hiện trên màn hình.



Hình ảnh ấy khiến chị nghĩ đến người cha của mình.