Anh Chàng Ngu Ngơ Và Cô Nàng Rắc Rối

Chương 36 : Brady

Ngày đăng: 12:12 19/04/20


Tôi đi bộ tới nhà Schultz, nhiễm sắc thể Y trong người tôi lập tức trỗi dậy. Thay vì tập trung vào công việc trước mắt, tôi bắt đầu so sánh nhà của ông với dinh thự mình sẽ có khi trở thành triệu phú. Chỗ này thật ấn tượng, đầy đủ hết. Nhưng tôi thì sẽ có tối thiểu năm chiếc xe trước nhà, giống như mọi ngôi sao nhạc rap biết tự trọng khác. Và tôi sẽ thuê người để đảm bảo những chiếc xe đó luôn được đánh bóng hoàn hảo. Mỗi ngày.



Tôi biết vì tôi đã xem quá nhiều tập phim Cribs trên MTV. Nhưng bạn biết mình không thấy được gì trong những tập Cribs trên MTV không, loạt chương trình phô trương sự giàu có của những người nổi tiếng ấy? Bờ hào. Khi tự kiếm được tiền, tôi sẽ xây một con hào ngay trước cửa nhà. Để phòng hờ thôi. Biết đâu sẽ có ngày Howard và tôi cùng đi chơi, săn bắn này nọ, làm những thứ đàn ông hay làm cùng nhau – đánh giá các cô siêu mẫu, nhiếc móc các tay huấn luyện viên thể thao chuyên nghiệp, tranh luận xem ai có nhiều tóc hơn – lúc đó tôi sẽ luôn có bờ hào. Quân bài chiến lược. Schultz à? Chà, ông đâu có cái bờ hào nào! Chịu thua đi!



Rồi khi đứng đó, gật gù với hào nước, tự hài lòng với chính mình, tôi bừng tỉnh vì một người làm vườn bước vào nhà, để cổng mở toang. Tôi đâu phải người tin vào các dấu hiệu, ám chỉ này nọ. Nhưng nếu Heaven đứng đây, cô nàng sẽ dứt khoát cho rằng đây là một dấu hiệu. Và rằng tôi nên bước vào sau người làm vườn. Thế là tôi đi vào.



Được rồi, ông ấy có thể không có hào nước, nhưng căn nhà này đẹp chết đi được. Tôi không biết chính xác nên làm gì ở đây, bèn bước lên thảm cỏ cùng bản kế hoạch kinh doanh. Ngay lúc đó, bất thình lình tôi nghe một giọng nữ Mexico chói tai cất lên.



“Cậu muốn gì?”



Tôi không biết nên nhìn vào đâu, nhưng vẫn trả lời như thể đang nói chuyện với một phù thủy xứ Oz.



“Tôi chỉ… có vài thứ cho ngài Schultz”, tôi đáp, giơ bản kế hoạch cùng chiếc chai nhỏ lên để chứng tỏ mình thực sự có vài thứ.



“Ngài Schultz không có ở nhà. Cậu không được mời. Cậu là kẻ đột nhập! Tôi gọi cảnh sát!”



“Không, không cần phải vậy!” Tôi vẫn còn tự hỏi liệu bà ấy có vô hình hay sao, hoặc có lẽ bà ấy nói chuyện thông qua máy phát thanh gắn đâu đó trong thảm cỏ.



“Tôi gọi cảnh sát NGAY!” Bà ấy nói, rồi tôi nghe tiếng “click”. Ban đầu, bộ não hoảng hốt của tôi nghĩ rằng đó là tiếng lên cò súng. Nhưng không, nghe giống như tiếng cửa đóng sập vào hơn. Mà thôi, tôi khá chắc bà ta không nói đùa. Rồi lại có vấn đề khi người làm vườn hùng hổ đi về phía tôi cùng cái nhìn rất đáng sợ với chiếc cào cỏ bằng kim loại khổng lồ trong tay. Tôi bèn chạy khỏi thảm cỏ, qua cổng, xuôi xuống đồi, trở lại chỗ Heaven đang nói chuyện với mấy đứa bé.



Chạy đến chỗ cô nàng, tôi đã mệt đứt hơi, cúi người về trước, chống tay lên gối mà thở hồng hộc mất mấy giây. Strummer đi đến, liếm mặt tôi.



“Chuyện gì vậy?”, cô nàng hỏi. “Cậu gặp ông ấy chứ?”



“Không, tôi thấy người làm vườn của ông ấy, và bị quát mắng bởi ai đó mà tôi đoán là quản gia, trừ phi ông ấy kết hôn với một quý bà giọng cao the thé và nói tiếng Anh không sõi.”



“Ai biết được chứ”, Heaven đáp. “Có thể bà ấy thực ra rất tốt, nhưng uống cà phê quá nhiều. Tôi bảo đảm trong nhà đó có nguồn cung cà phê vô tận.”



“Tôi sẽ phải đáp không về việc đó. Tôi nghĩ xác xuất cao là chẳng có ai dám kết hôn với mụ đó.” Cô nàng nhìn xuống tay tôi, tôi đang cầm bản kế hoạch cùng chiếc chai.



“Cái gì kia?”, cô nàng hỏi. “Tại sao bản kế hoạch vẫn ở trong tay cậu?”



“Cô không nghe hết à? Quý bà giọng the thé, người làm vườn… cái cào?”



“Này, đưa tôi xem”, cô nàng nói rồi tóm lấy bản kế hoạch cùng chiếc chai khỏi tay tôi, cô nàng oai vệ tiến về phía một đứa nhóc đang phê thuốc. Chỉ loáng sau, tôi thấy thằng bé cởi chiếc áo thun hipster kiểu để chơi bowling ra, đưa cho cô nàng. Cô nàng lộn nó lại, mặc vào người, cuộn tóc lên thành búi, rồi oai vệ đi về phía lối dẫn tới nhà Schultz, hướng cửa trước.



“Rất vui được quen cô”, tôi la lên.



Tôi thậm chí không dám nhìn. Nhưng vì mạng sống của Heaven đang rơi vào nguy hiểm, tôi nghĩ việc này có thể thú vị. Thế là từ đằng sau xe hơi, tôi nhìn qua thảm cỏ, cô nàng đã đi tới cửa trước ngôi nhà to sụ của Schultz. Tôi nhìn về phía cánh cửa mở, thấy một người mặc áo đen, và Heaven nói chuyện với ông ta trong khoảng thời gian dường như dài cả thiên niên kỷ. Rồi đóng cửa lại. Và như thể chẳng có gì xảy ra, cô nàng quay lại.



“Brady?”, cô nàng gọi.



“Đây này”, tôi nói từ chỗ trốn đằng sau xe hơi, hiện tại trông tôi hơi hèn. Cô nàng khom người. “Chuyện gì vậy?”, tôi thì thào.



“Một người ra mở cửa… tôi nói ông ấy là tôi có thứ rất quan trọng cần giao cho ngài Howard Schultz, và gán hết cho ông ta trách nhiệm phải đảm bảo đưa nó tới cho ngài Schultz trong tình trạng nguyên vẹn, bằng không…”, rồi cô nàng vẫy tay trong không khí.



“Bằng không thì sao?”



“Tôi quên mất mình đã dùng từ gì rồi”, cô nàng nói, “nhưng ông ấy rất ấn tượng với tính nghiêm trọng của vấn đề. Thế nên tôi nghĩ chúng ta có năm mươi phần trăm cơ hội.”



Ông ta không phải người duy nhất bị ấn tượng. Thành công hay không, đó cũng là điều thật thần thánh. Cô nàng lôi tôi khỏi phía sau chiếc xe. Chúng tôi quay trở lại mặt-đối-mặt với thằng bé mười hai tuổi đang mặc chiếc áo thun Nirvana cùng áo khoác chạy mô tô màu đen.



“Áo khoác đẹp đấy”, tôi nói. “Trông nhóc giống như Fonz[1] ấy.”



[1] Nhân vật giả tưởng trong loạt phim sitcom “Những ngày hạnh phúc” của Mỹ, do Henry Winkler đạo diễn, công chiếu vào năm 1974.



“Là ai vậy?”, thằng bé hỏi. Tôi thậm chí không màng đưa ngón cái lên nói “ai da” để trêu chọc trí nhớ của thằng bé, vì nó làm gì có ký ức về chuyện đó. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy mình là thằng đàn ông già cỗi nhất trái đất.



Ngay lúc này, một chiếc xe cảnh sát đỗ lại ngay sau chiếc xe hơi thuê của tôi. Hai viên cảnh sát bước ra.


“Cậu có phiền không vậy?”, cô nàng hỏi.



“Cô thì sao?”, tôi đáp trả.



“Tôi đang có khoảnh khắc khó quên”, cô nàng nói.



“Đúng vậy. Nhưng mà, có lúc nào cô không như thế chưa?” Cô nàng làm mặt quỷ, rồi chúng tôi lại đi bộ xem nốt bảo tàng. Họ có một quán cà phê gọi là The Turnable, một cửa hàng lưu niệm bán CD cùng các vật phẩm liên quan đến âm nhạc. Họ tuyên bố có một trăm đĩa CD nổi bật nhất về nhạc rock ’n’ roll, lại có một số thứ trong này mà tôi thậm chí còn chẳng biết là người ta lại ghi vào CD. Đây thực sự là chỗ tôi thấy thú vị nhất trong toàn bộ bảo tàng.



Chúng tôi rời khỏi đó, cảm thấy thỏa mãn vì – ít nhất – đã làm được điều gì đó nên làm khi đến Seattle. Heaven muốn tôi xem siêu thị Pike, nơi cô nàng đã thấy một ít vào hôm qua.



Chúng tôi lên đường đến đó, thấy một quán bar tên Powell’s ở tầng trên của siêu thị. Một quán bar tuyệt vời, đầy khói, theo phong cách cổ và có góc nhìn đẹp mê hồn. Chính là kiểu địa điểm mọi người đến nhậu nhẹt vào ban ngày, và gọi nhau bằng tên riêng.



Heaven cùng tôi quyết định uống một trận trước khi lên chuyến bay về nhà, nhưng bất kể say đến cỡ nào, tôi sẽ không quên rằng chúng tôi đã có hiệp ước khi hạ cánh xuống đây. Cô nàng sẽ ngồi ghế gần cửa sổ trên chuyến bay khứ hồi.



“Cô sẽ làm gì khi chúng ta quay về?”, tôi hỏi. Tôi cũng tự hỏi mình câu này. Tôi sẽ làm cái quái gì để kiếm mười nghìn đô đã hứa hẹn với ban nhạc? Tôi cảm thấy đủ tệ về việc nói dối lũ nhỏ rồi… giờ thì tôi thậm chí còn cảm thấy tệ hơn khi quay về nhà và thực sự phải xoay xở cho ra tiền.



“Ý cậu là sao?”, cô nàng hỏi.



“Thì… không phải tôi muốn gợi ra chủ đề khó chịu, nhưng gần đây cô đã mất việc mà.”



“Đúng, tôi biết”, cô nàng rõ ràng là cực kỳ sung sướng vì được tôi gợi nhớ. “Tôi có thể nói với cậu những điều tôi sẽ không làm.”



“Là gì?”



“Kiếm một công việc phụ bàn khác.”



“Tốt. Cô không nên làm vậy”, tôi nói. “Ai đó sẽ cần đến một bộ óc làm PR giỏi.” Cô nàng nhìn tôi chằm chằm. Tôi cố tránh ánh mắt đó, tự hỏi liệu trên mặt mình có dính gì không.



“Ừ… tôi biết một ban nhạc sắp cần được lăng xê hết cỡ trong vòng ít tháng tới”, cô nàng nói. “Và họ sẽ cần một công ty quản lý, không phải dạng công ty dùng những thủ đoạn xưa cũ. Mà là ai đó suy nghĩ khác lạ. Ai đó mới mẻ hơn. Làm việc cật lực hơn.”



“Hmm…”, tôi ngẫm nghĩ. Có lẽ lần đầu tiên kể từ lúc biết cô nàng, tôi mới thấy cô nàng không hề giễu cợt. Nghiêm túc nào.



“Tôi nghiêm túc”, cô nàng nói. “Chúng ta có gì để mất đâu?”



“Cô chắc chắn là to mồm thật.”



“Nếu tôi làm PR cho Superhero, vậy cậu sẽ làm việc với tôi. Cậu có thể chịu được việc gặp tôi thường xuyên không?”



“Cứ làm như thể cô sắp đi đâu ấy.” Tôi mỉm cười. “Dường như tôi chẳng có lựa chọn nào cả. Tối thiểu thì tôi cũng đặt được cô vào vị trí hữu ích.”



“Tôi sẽ gọi công ty của mình là gì nhỉ?”



“Câu hỏi hay đấy”, tôi suy nghĩ.



“PR Chết ở tuổi hai mươi bảy?”



“Không có tinh thần lắm…”



“Những công ty ‘cool’ thì tên cũng phải ‘cool’…”, cô nàng nói. “Gã Lùn Hư Hỏng… Nữ Quyền… Rắc Rối Lớn…”



“Ô kê… cái đó nghe cũng được.”



“Tôi thích nó”, cô nàng tự tin đáp.



“Được rồi”, tôi biết quá rõ rằng đó sẽ là tên công ty của cô nàng. Tôi nâng ly. “Mừng cô, và Chết ở tuổi hai mươi bảy… Chúc cô có nhiều thành công hơn cả trong mơ… và chúc cô biến Superhero thành ngôi sao nổi tiếng, khiến chúng ta thật giàu, giàu sụ luôn!”



“Nghe rồi! Nghe rồi!”, cô nàng đáp. Chúng tôi cụng ly.



Chúng tôi đến sân bay để ký gửi Strummer. Tạm biệt anh chàng bé nhỏ này lúc nào cũng khó khăn, nhưng tôi biết rằng chúng tôi sẽ gặp lại nó ở cuối chuyến bay.