Anh Hùng Bắc Cương

Chương 40 : Trên cánh đồng tương

Ngày đăng: 12:12 18/04/20


Trên cánh đồng Tương ------ -



Trước đây Khai-Quốc vương nghe sư phụ Huệ-Sinh không tiếc lời khen đại hiệp Tự-An về tài dạy dỗ đệ tử. Bảy đệ tử của ông đều là những quái kiệt trong giới võ lâm. Ngoài bản lĩnh cao thâm ra, họ đều có biệt tài về một bộ môn văn hóa. Khi cầm quyền trấn nhậm Nam-thùy Đại-Việt, tiếp xúc với Ngô An-Ngữ, Vương tìm thấy ngay Ngữ có tài dùng binh, mà hiện trong triều chỉ có phụ hoàng hơn được.



Tuy biết võ công Ngô cao thâm, dùng binh giỏi. Nhưng Ngô xuất thân phái Đông-a. Mà bấy giờ phái Đông-a đang chống triều đình, vì vậy tuy yêu tài Ngô, vương cũng chỉ có thể trao cho cầm một trong mười đạo quân Thiên-tử-binh. Sau vụ phụ hoàng cùng Khai-Thiên vương tập kích Trường-yên, bị Ngô An-Ngữ bắt sống tướng Mai Hựu chỉ huy quân của Khai-Thiên vương. Bấy giờ Vương mới có cớ thăng Ngô-an-Ngữ lên chức quản Khu-mật viện Nam-thùy, một chức vụ lớn hơn Tiết độ sứ. Hơn nữa, chức vụ tín cẩn.



Sau chính nhờ An-Ngữ, vương biết thêm Đoàn Thông, viên đô đốc chỉ huy hạm đội Thăng-long. Vương nghiên cứu lại hoạn đồ Đoàn Thông, thấy y gặp gian nan vì trực tính, không thuận theo ý Dực-Thánh vương. Vương truyền gọi Thông đến yết kiến, an ủi rồi thăng lên một lúc hai bậc, trao cho thống lĩnh ba hạm đội Âu-Cơ, Bạch-Đằng, Gia-Hưng.



Giờ đây, vương mới được gặp đại đệ tử Trần Phụ-Quốc trong một chức võ quan không nhỏ của Tống. Chỉ tiếp xúc sơ sài, vương thấy ở Quốc một người yêu nước nhiệt thành, một thái độ ngang tàng, hơn nữa một thi nhân lãng mạn.



Sáng hôm sau thuyền đi vào địa phận Trường-sa. Hai lão Tôn, Lê lại trở về thuyền của Phụ-Quốc. Vương với Vương-phi đang dùng điểm tâm. Hai lão đưa lời vấn an rồi hỏi:



- Vương gia! Năm thị vệ sai đi hôm qua, cho đến giờ phút này vẫn không có tin tức gì. Với con mắt thần của Vương-gia, Vương-gia thử đoán xem tình trạng họ ra sao?



Khai-Quốc vương biết hai lão nghi ngờ mình, Vương tảng lờ:



- Năm vị thị vệ đó võ công cực kỳ cao thâm, không dễ gì có người hại được họ. Theo cô-gia, trong khi đuổi theo bọn thiếu niên kia, họ đã gặp việc gì quan trọng, rồi theo dõi, nên không về phục lệnh nhị vị Quốc-công chăng.



Lão Lê lắc đầu, rồi hỏi Vương Văn:



- Vương tướng quân. Tướng quân có nghe biết vụ án hơn trăm người bị giết chết trong thành Hành-nam chứ?



- Trình quốc công có. Tất cả nạn nhân đều thuộc bang Nhật-hồ Hành-nam. Quan Kinh-lược an phủ sứ cùng Chuyển-vận sứ thân đến nơi điều tra. Số người chết gồm một trăm mười hai người. Họ đều chết vì chưởng lực chính đại quang minh. Một người trong bọn họ bị thương nặng, còn sống sót cho biết hung thủ chỉ có hai người. Một người là nhà sư, một người là đàn bà. Chúng ra tay cực tàn bạo. Giết người xong, chúng còn viết lên tường câu Tru diệt bọn Nhật-hồ.



Lão Lê đưa mắt nhìn Thanh-Mai:



- Những người không biết võ công Lĩnh-Nam, đều cho rằng hung thủ thuộc phái Thiếu-lâm. Nhưng theo lão phu, hai người đó tinh thâm võ công phái Đông-a, Sài-sơn, Tản-viên. Người xử dụng võ công Sài-sơn, dùng nội lực Đông-a thực tàn bạo. Mỗi chiêu đánh trúng người nào, người ấy bị nát nhừ tạng phủ. Trong khi cơ thể nguyên vẹn. Vương phi! Những người như thế, thực không hai. Lão phu nghe nói huynh trưởng của Vương-phi luyện nội lực Đông-a tới chỗ cao thâm khôn lường. Người lại học được Thiên-vương mật dụ, nên luyện thành võ công Sài-sơn. Như vậy...



Y cười cay đắng:



- Phải chăng hung thủ là quý trưởng huynh?



Thanh-Mai khâm phục kiến thức lão Lê nàng nghĩ thầm:



- Nếu mình chối, sau nảy ra sự thực, ắt hai con ma này khinh thường mình. Mình phải nói nước đôi mới được.



Nàng cười:



- Quốc công thực xứng đáng là người tổng trấn Nam-thùy Đại-Tống, không việc gì trên đất Việt mà Quốc-công không biết. Nhưng Quốc-công ơi, huynh trưởng của tôi đã hoàn tục lâu rồi, đâu còn làm sư nữa. Người hành hiệp nay đây mai đó khó có thể biết người ở đâu. Nếu sự thực hơn trăm người đó bị huynh trưởng của tôi giết, chắc chắn Tống triều hài lòng lắm. Bởi mấy chục năm nay Tống triều hằng truy nã bang chúng Nhật-hồ khắp nơi mà. Lão Tôn nghiến răng:



- Tôi nghi chín kị mã hôm rồi đón đường sứ đoàn, dụ cho năm thị vệ đuổi theo cũng do thiếu hiệp Trần Thông-Mai chứ không sai. Đây thuộc điạ phận Trường-sa, lão phu chịu thua y, chứ y mà đến Biện-kinh, lão phu cam đoan chỉ ba ngày sẽ gô cổ y lại.



Thân Thiệu-Thái hỏi:



- Vãn bối nghĩ hai vị tước tới Công. Quan cao cực phẩm, khi nghe thấy những kẻ thù của triều đình bị giết ắt vui mừng lắm, chứ có đâu lại giận dữ? Tỷ như thiếu hiệp Thông-Mai có giết bọn bang Nhật-hồ, vãn bối nghĩ Quốc-công phải tấu về triều ban thưởng cho người chứ? Còn chín thiếu niên trêu chọc các thị vệ đại nhân, vãn bối cho rằng không phải Trần thiếu hiệp.



- Tại sao?



Lão Tôn hỏi.



- Chín người đó võ công rất cao cường. Họ xử dụng võ công Trung-quốc. Hơn nữa họ đều là người Hán, đã trúng cách sơ tuyển, đang trên đường về kinh hy vọng thành Phò-mã. Thiếu-hiệp Thông-Mai làm sao sai khiến được họ?



Mặt trời đã lên cao, viên thuyền trưởng hành lễ với Vương Văn:



- Thưa tướng quân, hôm qua tướng quân có lệnh khi thuyền đi vào cánh đồng Tương phải báo cho tướng quân biết. Cánh đồng Tương có ba. Bây giờ thuyền vào tới khu thứ nhất rồi. Xin trình để tướng quân rõ.



Vương Văn hỏi hai lão Tôn, Lê:



- Khai-Quốc vương muốn viếng thăm di tích cánh đồng Tương, hồ Động-đình nơi phát tích ra hai vị Quốc-mẫu tộc Việt. Không biết hai Quốc-công định thế nào?



Phẫn hận vì vụ đám bang chúng Nhật-hồ bị giết, thêm vào mối lo lắng năm trưởng lão của mình đuổi theo đám thiếu niên mất tích. Hai lão Tôn, Lê trút hận lên đầu sứ đoàn. Hai lão thấy rằng suốt hơn năm mươi năm qua, bóng vía chúng đến đâu, thiên hạ đều kinh hãi. Thế nhưng mấy hôm nay, dường như có một thế lực vô hình nào đó vừa có tính chất đe dọa vừa có tính chất khinh khi hai lão. Hai lão cho rằng trên thế gian chỉ Khai-Quốc vương mới có khả năng làm truyện đó. Hai lão nghĩ thầm:



- Tất cả những gì xẩy ra, có thể tên Long-Bồ chuẩn bị trước. Vậy muốn phá hỏng kế hoạch của y, ta cứ làm ngược lại những gì y đề nghị.



Nghĩ vậy lão Tôn nói:



- Sau vụ năm thị vệ biệt tăm. An ninh của sứ đoàn bị đe doạ. Chúng ta cứ vượt Tương-giang vào hồ Động-đình, ra Trường-giang. Sang Kinh-châu sẽ liệu, chẳng nên vào Tương-đài làm gì.



Lão ngừng lại một lát, rồi nói:



- Tương truyền khi Quốc-tổ phong cho một trăm con đi các nơi qui dân lập ấp, người có hẹn rằng : Mỗi năm các hoàng tử phải về cánh đồng Tương hội họp một lần. Chỗ hội họp đắp nhiều đài, gọi là khu Tương-đài. Hồi ấy, cánh đồng Tương gồm trọn vẹn lưu vực sông Tương từ hồ Động-đình tới chân núi Tương-Nam. Sau này dân chúng đến cư ngụ ngày một đông, thành ra bây giờ còn ba khu. Khu này gọi là Tương-Nam. Tới Trường-sa còn khu nữa gọi là Tương-trung và khu tiếp giáp hồ Động-đình là Tương-âu. Nơi mà các hoàng tử hội họp là Tương-âu chứ không phải Tương-nam, Tương-trung.



Thiệu-Thái ngơ ngác hỏi Mỹ-Linh:



- Mỹ-Linh à, anh nghe bà vú kể: Quốc-tổ Lạc-Long quân lấy Quốc-mẫu Âu-Cơ, đẻ ra bọc trăm trứng, nở ra trăm con trai. Sau đó Quốc-tổ nói với Quốc-mẫu rằng : Ta là loài rồng, nàng là tiên không thể ở với nhau được. Nay ta đem nămn mươi con xuống biển. Nàng đem năm mươi con lên núi. Rồi truyền ngôi cho người con cả. Sao nay Lê quốc công lại nói phong cho trăm con, mỗi người đi một nơi qui dân lập ấp?



Câu hỏi của Thiệu-Thái làm mọi người bật cười. Mỹ-Linh chưa kịp trả lời, lão Tôn nói mỉa:



- Giáo chủ Lạc-Long giáo, mà lịch sử về Lạc-Long quân còn không thông, thì còn mong mỏi gì?



Thanh-Mai đáp thay Thiệu-Thái:



- Biết những chi tiết nhỏ trong lịch sử, nhưng lòng lang dạ thú như Nhật-Hồ lão nhân thì ích gì? Lạc-Long giáo lấy tinh thần tộc Việt làm chủ đạo. Chính cái tinh thần đó mới quan hệ. Ví như Thiên-Thánh hoàng đế, vốn là con cháu họ Triệu. Nhưng liệu có biết hết chi tiết nhỏ nhặt về Tống thái tổ không?



Nàng giảng cho Thiệu-Thái:



- Tộc Việt mình có hai loại sử là chính sử và huyền sử. Ví như Cao-cảnh hầu Cao Nỗ chế ra nỏ thần, bắn liên tiễn. Dân chúng huyền thoại rằng vua An-Dương được thần cho móng rùa, làm nẫy bắn một lúc ngàn mũi tên. Đức thánh Gióng dùng Thiên-vương chưởng, rồi dùng kế đốt quân Ân. Dân chúng huyền thoại rằng ngựa sắt của ngài phun ra lửa.



Nàng nhấn mạnh từng tiếng:



- Câu truyện về Quốc-tổ, Quốc-mẫu đẻ ra bọc trăm trứng chỉ là huyền sử. Nguyên Quốc-mẫu là công chúa con vua Đế-Lai, lâu ngày sử không ghi được tên thực. Nhân khi thành hôn, hai ngài ngao du trên cánh đồng Tương, cùng núi Tam-sơn. Vùng này có rất nhiều chim Âu, bởi vậy mới gọi Quốc-mẫu là Âu-Cơ. Âu tức chim âu. Cơ là người vợ. Khi nói đến chim Âu đẻ, đương nhiên sẽ đẻ ra trứng. Thế thôi. Huyền thoại vốn do người dân truyền tụng, sức tưởng tượng của họ cũng thực tế như thế đó.



Nàng nhìn lão Lê:



- Sự thực Quốc-tổ cùng Quốc-mẫu vẫn ở vùng hồ Động-đình. Trong khi con trưởng làm vua, đóng đô ở Phong-châu, gần Mê-linh bây giờ. Còn các con, ngài phong cho mỗi vị làm vua một vùng. Vùng đó bao gồm từ Ngũ-lĩnh về Nam tới Chân-lạp, Tây tới Xiêm-la. Cho nên sử Hoa-Việt gọi tộc Việt bằng danh xưng Bách-Việt...



Thình lình tiếng nhạc du dương, trầm bổng từ xa vọng lại, làm Thanh-Mai phải ngừng nói. Mọi người hướng theo tiếng nhạc, tìm xem phát ra từ đâu.



Trên con thuyền nhỏ dài khoảng hai trượng, một cánh buồm lớn no gió phồng lên. Giữa cánh buồm vẽ con chim âu vỗ cánh dưới ánh nắng mặt trời. Một thiếu niên ngả mình trên chiếc ghế theo tư thức nửa nằm nửa ngồi, mặt quay về trước, hai chân đạp lên hai sợi dây. Hai sợi dây này nối với cánh buồm. Tay thiếu niên ôm cây đàn độc huyền cầm (đàn bầu), bật lên những âm thanh dài dặc vang đi rất xa. Trong khi y dùng chân điều khiển buồm.



Lão Tôn kinh ngạc:



- Âm thanh phát ra rõ ràng có tiếng trống, tiếng phách, tiếng tiêu cùng tiếng đàn. Trong khi trên thuyền chỉ có mình thiếu niên tấu đàn. Vậy những nhạc khí kia do ai xử dụng?



Con thuyền phăng phăng chạy rất mau. Thế nhưng tiếng nhạc vẫn dìu dặt lên bổng, xuống trầm, véo von vọng đi rất xa. Thoáng một cái, thuyền của thiếu niên đã chạy ngang với thuyền Vương Văn. Y chú tâm vào tiếng đàn, mắt nhìn trời, không biết đến trên chiến thuyền có nhiều binh lính, gươm đao sáng lòe.



Lão Lê cất tiếng khen:



- Tuyệt vời! Thực tuyệt vời. Thiếu niên vừa dùng chân điều khiển thuyền, vừa tấu nhạc, mà âm điệu không bị lạc. Khó kiếm được người giỏi thủy tính hơn y.



Lão cất tiếng gọi:



- Bạn trẻ. Bạn trẻ hãy ngừng lại cho lão phu hỏi đôi lời.



Con thuyền nhỏ vẫn phăng phăng trôi, tiếng nhạc đổi sang nhẹ nhàng như tơ trời.



Lão Tôn hỏi Mỹ-Linh:



- Công chúa! Công chúa giỏi âm nhạc. Công chúa có biết tại sao trước mặt chúng ta chỉ thấy một thiếu niên tấu đàn, mà có đến bốn âm thanh khác nhau? Vậy tiếng trống, tiếng tiêu, tiếng phách từ đâu mà có?


- Khi chúng cháu tới đây, đã thấy lễ vật bầy xong rồi. Còn ai bầy lễ vật cháu không biết. Ban nãy cháu thấy có anh cỡi ngựa tay cắp một người quan võ. Phía sau, một người quan võ nữa đuổi theo. Hai người vào trong Tương-đài đánh nhau.



Một đứa khác nói:



- Sau khi đánh với nhau có đến mười hiệp. Anh trẻ tuổi tung người bên hông cho ông quan võ. Ông quan dơ tay bắt lấy. Không hiểu sao sau đó ông ấy ngã lăn xuống ngựa. Anh kia ôm cả hai người để nằm ngang trên mình một con ngựa, rồi cỡi con ngựa khác chạy vào rừng.



Lão Tôn bảo mấy đứa trẻ:



- Tất cả lộc, ta cho các cháu. Các cháu vào hạ xuống chia nhau mà ăn.



Y nói với Khai-Quốc vương:



- Nơi này đầy bí hiểm, xin Vương-gia mau rời khỏi, chẳng nên nấn ná làm gì.



Hai lão Tôn, Lê nhìn nhau. Cả hai dường như cùng cảm thấy đau đớn nhục nhằn. Mười cao thủ bang Nhật-hồ thuộc loại hiếm có trong võ lâm. Thế mà trên đường từ Hành-Nam đến đây bị bắt mất tích một cách kỳ lạ. Giả như nếu công khai đấu với nhau, hai lão bị thua thì không sao. Đây đến mặt mũi địch thủ ra sao, hai lão cũng không biết.



Về tới chỗ thuyền đậu, hai lão truyền lệnh cho Vương Văn nhổ neo thực gấp. Khác với dự trù, lão Tôn đi thuyền trước, lão Lê đi thuyền sau. Vương Văn đi thuyền giữa. Bây giờ hai lão đi cùng thuyền với Vương.



Dọc đường, mặc cho sứ đoàn nói truyện với nhau. Hai lão lầm lỳ ngồi nhìn trời, nhìn đất.



Chiều hôm đó thuyền đi đến đoạn cuối sông Tương. Hồ Động-đình đã hiện ra xa xa. Vương Văn hỏi lão Tôn:



- Trình quốc công, chiều neo thuyền tại bờ hồ qua đêm hay đi luôn?



- Phiền tướng quân cho thuyền sang Kinh-châu, càng mau càng tốt. Tới Kinh-châu, nhiệm vụ tướng quân hết. Chúng tôi sẽ dùng đường bộ.



Mỹ-Linh hỏi lão Tôn:



- Này quốc công. Quốc công có thể ghé lại núi Tam-sơn, cho chúng tôi viếng nơi mà xưa kia Quốc-tổ, Quốc-mẫu lên đó thưởng thanh phúc trong ba năm không?



Lão Tôn lầm lì:



- Lão phu cũng muốn chiều Công-chúa. Đưa Công-chúa viếng di tích tổ tiên là điều lão phu hãnh diện vô cùng. Nhưng Công-chúa ơi, lão phu xin khất đến lúc Công-chúa trở về vậy. Vì xung quanh chúng ta, biết bao nguy hiểm đang chập chờn đe dọa.



Lão Lê hỏi Khai-Quốc vương:



- Cứ như vương gia nghĩ, ai là người chủ mưu trong vụ đe dọa anh em lão phu? Vương-gia cứ thực tâm mà trả lời. Dù gì chúng ta cũng là người Việt với nhau.



Khai-Quốc vương nghĩ thầm:



- Hai con quỷ này bối rối ra mặt rồi đây. Ta cũng nên trả lời thực cho hai lão biết. Như vậy mới đáng là quân tử.



Vương ngồi ngay ngắn lại:



- Nếu như tất cả những việc từ mấy hôm nay đều do một người chủ trương, thì người đó thế lực phải lớn lắm. Thế lực lớn nhất phải kể Lưu thái hậu, Định-vương Nguyên-Nghiễm, bang Nhật-hồ cùng các đại môn phái Thiếu-lâm, Võ-đang, Nga-mi, Hoa-sơn, Không-động.



Vương đưa mắt nhìn Vương Văn:



- Hai vị đang thi hành chỉ dụ của hậu, ắt không phải hậu hại hai vị rồi. Còn các đại môn phái, họ vốn quy thuận triều đình. Ai dại gì gây hấn với quan tổng chỉ huy Ngự-lâm quân cũng như thị vệ? Cuồi cùng là Định-vương với bang Nhật-hồ. Định-vương muốn hại hai vị, người chỉ việc truyền chỉ cho Tư-mã Đàm-châu, dẫn thiết kị bắt hai vị đem chặt đầu. Chứ đâu cần làm trò ú tim này? Vả Vương là người quân tử, hành sự luôn vì việc dân, việc nước, có đâu đón đường làm hại sứ đoàn? Cuối cùng chỉ còn bang Nhật-hồ, nay đổi thành bang Hoàng-Đế là đáng nghi mà thôi.



- Lão phu nghi đám con em họ Ngô muốn hại lão phu. Vì chúng xử dụng toàn võ công Lĩnh-Nam. Chúng gây ra những vụ này, làm cho lão phu mất hết uy tín, không còn chí khí phục hồi Ngô-Việt nữa. Hồi đầu lão phu nghi Khu-mật viện Đại-Việt. Nhưng sau thấy không phải, vì nếu là người Việt nói tiếng Hoa phải ngọng, có đâu nói toàn giọng Trường-sa?



Lão Lê nhăn mặt:



- Thực khó nói vô cùng. Rõ ràng Vương-gia muốn thăm Tương-đài. Lập tức có thiếu niên trêu ghẹo, đưa đến bọn lão phu đổi theo, rồi tới Tương-đài. Trên Tương-đài bầy sẵn lễ vật. Việc này có thể nghĩ rằng Vương-gia ra tay.



Khai-Quốc vương cười nhạt không trả lời.



Mỹ-Linh đáp thay chú:



- Chú cháu tôi đi đứng đều có hai vị bên cạnh, làm sao có thể truyền lệnh ngoài cho thủ hạ hành sự? Chẳng qua người này muốn làm cho hai vị nghi ngờ chú của tiểu nữ, làm điên đầu hai vị lên mà thôi.



Thuyền đã đi vào hồ. Mặt hồ về mùa Đông nước trong veo. Mờ mờ bên kia có ngọn núi. Vương Văn chỉ núi nói:



- Kia là núi Tam-sơn, nơi mà sau khi Quốc-tổ, Quốc-mẫu thành hôn rồi lên đó hưởng thanh phúc. Tương truyền, hai ngài lên vào đầu Xuân, bấy giờ chín vạn hoa Tầm-xuân nở.



Ba chiến thuyền dàn hàng ngang lướt trên mặt hồ. Xa xa, nhấp nhô một con thuyền nhỏ, có mui che kín bập bềnh trên sóng lăn tăn.



Thiệu-Thái chỉ thuyền nhỏ:



- Trên thuyền kia nhất định có ngư ông đang câu cá.



Mỹ-Linh cười:



- Tại sao phải ngư ông mà không là ngư bà?



Gió thoảng từ trước vọng lại tiếng đàn tranh, lẫn tiếng tiêu.



Vương Văn góp ý:



- Công-chúa với Thế-tử đoán sai rồi. Trên thuyền nhất định có thi nhân đang tiêu dao mây nước.



Chiến thuyền mỗi lúc một gần con thuyền nhỏ. Càng gần nhìn càng rõ. Trên thuyền có một trung niên nam tử ngồi thả chân xuống nước. Tay ông ta ôm một cái chậu bằng đồng đựng nước. Tay kia vuốt trên thành chậu thành một thứ âm thanh vang vang kỳ lạ. Trong khoang thuyền vọng ra tiếng đàn tranh hợp tấu.



Lão Tôn hỏi Vương Văn:



- Vương tướng quân. Người có biết thứ đàn kia là đàn gì mà âm thanh quái gở không?



Vương Văn kính cẩn đáp:



- Thưa quốc công, vào thời vua Hùng thứ sáu mươi, có một người ca nữ thường phải tập ca. Nhưng vì trong nhà có mẹ già yếu, nên phải chui đầu vào chum luyện giọng. Khi luyện như vậy, tay nàng chà xát vào thành chum thành âm thanh hợp tấu. Dần dà, nàng biến phương pháp chà tay thành một thứ âm nhạc riêng. Người sau biến đổi đi, làm cái chậu bằng đồng có hai ngăn. Ngăn dưới đựng nước. Ngăn trên có những mấu lồi. Sau đó dùng tay chà, âm thanh vọng từ trong ra rất ảo diệu. Đàn đó gọi là đàn chậu. Ngày nay, đàn chậu biến thành hàng trăm loại khác nhau.



Thủy thủ đứng đầu chiến thuyền cầm loa gọi lớn:



- Thuyền nào kia mau tránh sang bên cạnh, bằng không bị thuyền này đụng bẹp.



Người nghệ sĩ vẫn ôm cái chậu, tay xoay, tiếng vang càng lớn hơn. Mỗi lần y vuốt tay một cái, mọi người đều cảm thấy trong tim đau nhói, tai ù đi, trong khi chân tay múa mênh không tự chủ được. Rồi một giọng ca âm u như từ thế giới nào vọng về lọt vào tai.



Lão Tôn than:



- Trời ơi yêu quái. Thực là yêu quái!



Mặc hai lão hò hét, đám thủy thủ chân tay nhảy múa cuồng lọan, miệng ca hát theo tiếng ca vọng lại.



Lão Lê cất tiếng la lớn, làm nhiễu loạn tiếng đàn chậu kia. Quả nhiên tiếng hát cùng tiếng đàn không lọt vào tai đám thủy thủ. Chúng thở hồng hộc tỏ vẻ mệt mỏi. Vương Văn truyền chúng tiếp tục chèo.



Chiến thuyền càng tới gần thuyền kia, người nghệ sĩ càng vuốt tay nhiều hơn, trong khi tiếng tiêu trên đỉnh cột buồm, tiếng đàn trong thuyền vọng ra thành thứ âm thanh mới. Tim mọi người như muốn nhảy khỏi lồng ngực, tai như ù đi. Từ Khai-Quốc vương cho tới Thiệu-Thái đều phải vận công mới trấn nhiếp được tâm hồn. Đám thủy thủ bỏ chèo, bỏ lái, tay ôm ngực, bịt tai lăn lộn. Ba chiến thuyền không người điều khiển quay ngang trôi theo chiều gió.



Lão Tôn kinh hãi:



- Khổ thực! Chuyến đi này của mình gặp toàn bọn ma quái. Làm sao bây giờ?



Hai lão cùng vận công hướng về phía con thuyền câu cất tiếng la chống lại các âm thanh. Được một lúc, trên đỉnh vột buồm kêu mấy tiếng lốp bốp. Mấy ống tiêu vỡ tan, những mảnh bay tung trêm mặt hồ. Trung niên nam tử mỉm cười nói vọng sang:



- Võ công Cửu-chân thực lợi hại. Ta hưu chiến một lúc.



Tiếng đàn chậu phía trước đã ngừng. Thủy thủ đâu vào đấy. Lão Tôn ra lệnh:



Dùng vải nhét vào lỗ tai, chèo về phía con thuyền kia cho ta.