Anh Linh Thần Võ Tộc Việt
Chương 21 : Ngổn Ngang Trăm Mối Bên Lòng -(đoạn-trường Tân Thanh)
Ngày đăng: 12:12 18/04/20
Thuyền sắp rời hồ Động-đình vào sông Tương. Thanh-Mai liếc nhìn Lê Văn, thấy mặt y buồn rười rượi, nàng biết cậu em vốn hiếu động nay ngồi im trầm tư vì phải xa Nong-Nụt, nhớ nhung chồng chất mà thành. Muốn phá cái yên lặng, nàng nháy sư huynh Trần Bảo-Dân một cái. Bảo-Dân cất tiếng hát:
Nàng về xứ Thái xa xôi,
Để thương, để nhớ, để tôi phải buồn.
Lê Văn nắm tay Bảo-Dân:
- Đại ca ơi, không phải em nhớ Nong-Nụt mà thôi đâu. Em buồn vì nhiều chuyện. Chuyện thứ nhất là chị Thiếu-Mai lấy chồng phải theo chồng ở lại Biện-kinh làm vương phi Yên-vương. Từ đây quan sơn cách trở, khó mà gặp nhau. Đại ca biết chứ, trong nhà chỉ có chị Thiếu-Mai với em, nay chị ấy đi lấy chồng, em trơ trọi một mình, buồn chết đi được. Chuyện thứ nhì, đại ca biết chứ, bọn em kết thành Thuận-Thiên thập hùng. Nhưng Thuận-Tông, Thiện-Lãm tính như ông cụ non không hợp với em. Em với Tự-Mai, Tôn Đản phá trời đã quen, nay vắng Tự-Mai em thấy thiếu thiếu một cái gì ấy. Muốn phá, muốn nghịch, không có ai hưởng ứng.
Thanh-Mai định phân giải đôi lời với Lê Văn, thì trên trời có tiếng chim ưng réo. Thiệu-Thái hú lên một tiếng gọi nó xuống. Chàng lấy thư trong ống tre dưới chân chim trình cho Khai-Quốc vương. Vương liếc qua, rồi bỏ vào túi.
Vương vào khoang lấy bút viết một lúc mấy tờ thư xong trao cho Thiệu-Thái một lá:
- Cháu sai chim ưng Bắc-biên mang về cho mạ mạ.
Vương biết bức thứ nhì, thứ ba rồi hỏi Thiệu-Thái:
- Mấy cặp chim ưng của mình có thể bay sang Đại-lý, Xiêm-la không?
- Thưa cậu được.
- Đây, cháu cho chim ưng mang thư này đến phủ Ngô-quốc quận vương ở Liễu-châu cho Tự-Mai. Thư này cho Trấn-Nam vương Đoàn Huy. Thư này cho lão sư Rát-ta-na xứ Xiêm.
Thiệu-Thái gọi ba cặp ưng xuống, bỏ thư vào ống tre dưới chân chim, hai tay tung nó lên cao. Ba cặp chim lượn một vòng, rồi hướng phương Nam bay vào đám mây trắng.
Sau khi Định-vương phá vỡ âm mưu của Hồng-thiết giáo Đại-Việt giúp Lưu hậu tổ chức cuộc chính biến định giết Thiên-Thánh hoàng đế, tiêu diệt hoàng tộc nhà Tống, tái lập một triều đình dùng Hồng-thiết kinh thay Nho trị dân... Uy tín Định-vương lên cao. Vương được cải phong làm Yên-vương. Nhưng vương nhất tâm nhất chí phù trợ cho nhà vua. Vì vậy vương để nhà vua cùng quần thần lo chính sự. Vương chỉ cố vấn giải quyết những vấn đề khó khăn.
Cuộc tuyển rể đông sàng cho mười bẩy giai nhân vẫn tiếp tục. Sau khi tuyển xong, Lý thái-hậu truyền làm lễ thành hôn cho công chúa Huệ-Nhu với Tự-Mai. Vì những công lao đã lập với triều Tống, Tự-Mai được phong:
Thái-tử thiếu bảo,
Đồng bình chương sự,
Tả kiêu vệ đại tướng quân,
Ngô quốc quận vương.
Ý Yên-vương muốn để Tự-Mai cùng công chúa tổng trấn Bắc-thùy, đối phó với Khất-đan. Nhưng đại hiệp Trần Tự-An đề nghị với Thiên-Thánh hoàng-đế rằng: Khi triều đình Tống-Việt đã nhất tâm muốn tạo hoà bình, thì Việt không cần đại quân trấn Bắc. Tống cũng chẳng nên đặt trọng binh ở Nam-thùy. Tuy nhiên cần phải có người có uy của Việt mới mong diệt hết bọn người Việt muốn gây thù với Hoa, mà không ai có thể dị nghị. Ngược lại người đó cần có chức tước bao trùm Nam-thùy Tống, mới mong ước thúc bọn tham quan chủ gây chiến. Người đó không ai ngoài công chúa Huệ-Nhu với phò mã Tự-Mai.
Tống-đế lập tức truyền bãi trọng binh ở Nam-thùy, cùng một lúc, Đại-lý, Đại-Việt, Lão-qua, Xiêm-la cũng rút quân ở biên giới Tống.
Triều đình cử phò mã cùng công chúa tổng trấn Nam-thùy, toàn quyền tùy nghi giải quyết mọi xích mích giữa Tống với Đại-Việt, Đại-lý. Tất cả trọng binh ở Nam-thùy được đưa lên Bắc-thùy chống với Khiết-Đan.
Bọn Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính được đặt dưới quyền phò mã.
Thiên-Thánh hoàng đế ban chỉ dụ cho phò mã, công chúa cùng bọn Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính : Tuyệt đối tránh xung đột với Đại-Việt, tôn trọng những gì Yên-vương với Khai-Quốc vương đã cam kết với nhau.
Nhà vua ủy cho Yên-vương tiễn Khai-Quốc vương và sứ đoàn Đại-Việt về nước.
Cũng trong dịp lễ cưới của Tự-Mai, Thiên-Thánh hoàng đế làm lễ tấn phong Lê Thiếu-Mai làm Yên-vương vương phi. Theo đề nghị của Yên-vương, Hoàng-đế ban chỉ ân xá trên toàn quốc. Tuy nhiên theo luật Tống, thì có ba tội không được ân xá là: Mưu phản, hành thích Hoàng-đế, làm gian tế cho ngoại bang. Vì vậy bọn Tào Lợi-Dụng cùng bọn Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản được ân xá tội tru di tam tộc, mà chỉ bị chém cả nhà.
Sau lễ, bốn đại tôn sư Đại-Việt: Ngô Quảng-Thiên, Phan Nam, Trần Tự-An, Hồng-Sơn theo lời mời của đại sư Minh-Thiên, cùng nhau lên núi Tung-sơn thăm chùa Thiếu-lâm. Còn sứ đoàn Đại-Việt lên đường về cố quốc. Sứ đoàn đi ba ngày mới tới Kinh-châu, rồi dùng thuyền đến Nam-ngạn.
Khai-Quốc vương hỏi Bảo-Dân:
- Nhị sư huynh! Nếu như thuyền xuôi giòng ra biển, rồi về Thiên-trường, phải mất bao nhiêu ngày?
Bảo-Dân tính toán một lúc, rồi đáp:
- Từ đây ra biển mất khoảng ba ngày. Từ biển về Thiên-trường mùa này có gió Bắc thổi, thuyền xuôi Nam rất mau, nên mất khoảng năm ngày nữa mà thôi.
Thanh-Mai thấy chồng đăm chiêu, nàng hỏi:
- Có truyện gì vậy? Chim ưng đưa thư của ai tới đấy? Hôm rồi, trong sân Hoàng-thành, kể từ lúc chim ưng mang thư tới, em thấy dường như anh không an tâm...
Hơn ai hết, Thanh-Mai hiểu chồng mình: Dù trong nguy nan đến đâu, vương cũng thản nhiên như không. Hôm ở trong vườn ngự uyển Hoàng-thành, sau khi vương nhận tin của chim ưng mang tới, tuy sắc mặt bình thường, nhưng vương trở thành trầm tư. Hôm nay tin tới, khi đọc, trán vương hơi nhăn lại. Thanh-Mai đoán hẳn có biến cố gì quan trọng lắm.
Nghe Thanh-Mai hỏi, vương đáp gọn lỏn:
- Thư của chị An-Quốc.
Trả lời vương phi xong, nét mặt của vương hiện ra vẻ cương quyết. Vương nói với Phụ-Quốc:
- Đại sư ca gọi mọi người vào họp.
Mọi người tề tựu. Vương khoan thai nói:
- Có nhiều biến cố trầm trọng tại quê nhà. Trong khi ta đi sứ thì Nhật-Hồ lão nhân lại qui tụ đệ tử, tái lập Hồng-thiết giáo, nhưng thực lực của y không mạnh. Có nhiều giáo chúng chỉ huy các đạo không theo lão. Họ vẫn trung thành với Lạc-long giáo. Phụ-hoàng ta đau nặng, tạm ủy thác cho Khai-Thiên vương nhiếp chính. Nhưng anh hùng thiên hạ lại không chịu tuân chỉ anh ta mới khổ. Vì vậy mười đạo quân phải trao cho các vương, mỗi vương thống lĩnh một đạo.
Vương-phi kinh hãi:
- Thực nguy quá, nếu khi anh chưa về mà phụ hoàng băng hà rồi, thì đương nhiên sẽ có chiến tranh lớn.
Thuận-Tông hỏi:
- Sư tỷ, tại sao lại có chiến tranh?
Thanh-Mai đưa mắt cho Tôn Đản, ý nàng muốn Đản giải thích cho Tông. Tôn Đản giảng giải:
- Tông phải biết rằng các vị vương Vũ-Uy, Dực-Thánh, Đông-Chinh, Vũ-Đức hiện đều cầm trọng quyền cả. Trước đây Hoàng-thượng phong cho tất cả các vương đều làm Thái-tử. Vì vậy vương nào cũng muốn làm vua. Mãi cho đến đại hội Thăng-long, quần hào tôn anh cả lên làm thủ lĩnh Đại-Việt, các vương mới tạm bỏ mộng. Nay anh cả đi vắng, các vương có coi Khai-Thiên vương ra gì đâu? Nếu Hoàng-thượng băng hà, nước một ngày không thể không có vua cầm quyền, đương nhiên các quan phải tôn Khai-Thiên vương lên kế vị. Các vương sẽ không chịu, đem quân tranh ngôi vua. Cuộc chiến tranh tương tàn không thể tránh nổi.
Tôn Đản ngừng lại cho Thuận-Tông, Thiện-Lãm theo kịp, rồi chàng tiếp:
- Cứ như chim ưng báo, thì Dực-Thánh vương được trao cho hai đạo Quảng-thánh. Mỗi đạo hơn vạn người. Vương lại thống lĩnh thủy quân. Thủy quân các trấn thì vương không sai phái được, nhưng ba hạm đội Động-đình, Bạch-đằng, Âu-cơ, mỗi hạm đội hai vạn người, rất thiện chiến, lưu động mau chóng. Trước đây vương đã đi đêm với Lưu hậu để sau này vương cướp ngôi, được Lưu hậu phong chức tước cho. Bây thời cơ đến, thủy bộ của vương cộng chung tới tám vạn quân, trong bóng tối lại được bọn Nhật-Hồ hỗ trợ, chắc chắn vương sẽ làm phản.
Chàng nói với Khai-Quốc vương:
- Em nghĩ trong phép dùng binh, ai ra tay trước sẽ chiếm được tiên cơ. Anh nên tìm cách nào đó mật truyền lệnh cho các Đô-đốc chỉ huy hạm đội, cùng tướng chỉ huy đạo Quảng-thánh bề ngoài giả tuân phục Dực-Thánh vương. Nếu như vương làm loạn thì không tuân lệnh. Hoặc giả cứ tuân lệnh, rồi đợi khi lâm trận thì hành động ngược lại.
Khai-Quốc vương đưa mắt cho vương phi, như cùng thông cảm với nhau điều gì, lát sau vương gật đầu:
- Lời Tôn đệ bàn thực phải. Về tướng chỉ huy, thì đạo Quảng-thánh trước do Đinh Thịnh chỉ huy. Trong khi ta vắng nhà Đinh Thịnh mới được tân thăng vào trấn vùng Nghệ-an, Đàm quý phi xin cho em là Đàm An-Hòa thay thế. Hoà được thăng làm Hữu Kiêu-vệ đại tướng quân. Ta vô lực với tên này rồi.
Vương nhìn vương phi:
- Còn thủy quân, từ sau đại hội Thăng-long, phái Đông-a không bị nghi ngờ, trái lại được tín cẩn. Cho nên ta lấy cớ hầu hết tướng thủy quân là đệ tử Đông-a, ta thăng người chỉ huy thủy đội Thăng-long là Đoàn Thông, đệ tứ sư huynh của Thanh-Mai lên chức Đô-đốc thống lĩnh hạm đội Động-đình, các sư đệ đều đã biết cả rồi. Ta lại thăng sư đệ Vũ Minh, con trai sư thúc Vũ Anh chỉ huy thủy đội Thiên-trường làm Đô đốc thống lĩnh hạm đội Âu-Cơ; ta cũng thăng sư đệ Phạm Tuy con trai sư thúc Phạm Hào đang chỉ huy thủy đội Thần-phù lên làm Đô đốc thống lĩnh hạm đội Bạch-đằng. Nếu bây giờ ta viết thư cho họ, bảo không tuân lệnh Dực-Thánh vương, truyện lộ ra, có thể tứ sư huynh với hai sư đệ bị hại. Vậy Thanh muội ngầm viết thư cho nhị sư thúc Vũ Anh, để người dùng hệ thống tế tác Đông-a mật lệnh cho ba đô đốc thì hơn .
Lê Văn đề nghị:
- Sư huynh. Em nghĩ dù các vương có khởi loạn, nhưng với sự hiện diện của anh, thì họ khó thành công. Em đề nghị chúng ta phải phi ngựa bất kể ngày đêm trở về ngay mới kịp.
Bảo-Hòa tiếp lời Lê Văn:
- Việc các vương tranh ngôi thì mình không đáng sợ. Đáng sợ là bọn Hồng-thiết giáo nhân đó nổi loạn mới nguy. Chúng ta đã thấy cái gương triều Tống thì rõ. Nhật-Hồ lão nhân lợi dụng cuộc tương tranh giữa bang Nhật-hồ với triều đình, giữa Lưu hậu với Yên-vương, để mưu cướp quyền. Bên Đại-Việt ta ắt lão cũng làm tương tự. Cái nguy là mọi hành động của chân tay lão bên Tống lão không nắm được, trong khi ta lại hiện diện tại đương trường. Ta mới thắng lão. Ngược lại, bây giờ lão đang ở đương trường, còn ta lại ở xa.
Nàng gay gắt hơn:
- Từ trước đến nay cháu vẫn không đồng ý với các vị đại sư Minh-Không, Huệ-Sinh cũng như một số các vị cho rằng bọn Hồng-thiết giáo dù sao cũng là người Việt, nên trong đại hội Lộc-hà, đáng lẽ thẳng tay tru diệt chúng đi, thì lại trị bệnh cho chúng, rồi xin ông ngoại ban chỉ ân xá cho chúng. Cháu thì cháu nghĩ rằng, vì chúng bất tài, ngu dốt, lại vô tư cách, trong hương đảng, ngoài anh hùng hào kiệt đều coi chúng như con sâu cái kiến, dơ bẩn. Vì vậy chúng mới kết hợp với nhau thành một đảng cướp, dùng độc tố khống chế thiên hạ. Nay tuy được ân xá, trở về với làng xóm, chúng lại hiện nguyên hình là những tên ngu dốt, không có tài kiếm sống, cho nên chúng phải tái lập lại Hồng-thiết để có oai quyền, để ăn trên ngồi trốc, để nhân danh xã tắc muốn giết ai thì giết. Lần này trở về, cậu nên thẳng tay giết chúng không tha. Tha chúng tức là có tội với dân với nước.
Khai-Quốc vương đưa mắt nhìn cử tọa một lượt. Cao nhất là Bảo-Dân, thấp nhất là Lê Văn , mặt đều đằng đằng sát khí dường như đồng ý với Bảo-Hòa. Bảo-Hòa tiếp:
- Bây giờ chúng ta phải về khẩn cấp. Cháu đã thư cho phái Tản-viên chuẩn bị sẵn, hễ thấy bọn Hồng-thiết là thẳng tay tàn sát. Phái Tản-viên là hậu duệ của Thánh, mà đệ tử của ngài không tru ma diệt quỷ thì ai sẽ làm chuyện đó?
Khai-Quốc vương thở dài:
- Bảo-Hòa luận đúng, ta muốn dùng chim ưng truyền thư tới các tôn sư. Khổ một điều trước đây ta nhờ các tôn sư đi du thuyết khắp tám vùng tộc Việt hầu thống nhất đất nước. Nay các vị lại không ở nhà.
Vương tính đốt ngón tay:
- Quốc-trượng với Hồng-sơn đại phu thì đang ở chùa Thiếu-lâm. Sư bá Đặng Đại-Khê đang thay ta du thuyết ở Đại-lý. Sư thái Tịnh-Huyền, Tịnh-Tuệ hiện du thuyết bên Xiêm. Sư bá Minh-Không đang du thuyết ở Chân-lạp. Sư bá Thân Thiệu-Anh đang du thuyết ở Chiêm-thành. Đại-Việt ngũ long vắng nhà cả.
Mỹ-Linh bàn:
Khai-Quốc vương ra lệnh:
- Sư đệ Vũ Minh cho các chiến thuyền cập bến, dàn quân đối diện với quân của Vũ-Đức vương. Sư đệ Phạm Tuy đổ quân, dàn đối diện với quân của Dực-Thánh vương. Còn sư huynh Đoàn Thông dùng hạm đội tuần trên sông, rồi chở quân của Bắc biên, dàn ra ở cửa Bắc. Ta dùng chim ưng của Phong-châu, Thượng-oai liên lạc với nhau. Nhớ không được tin những lệnh gì truyền miệng, chỉ tin vào bút tích của cô-gia mà thôi.
Vừa lúc đó quân báo:
- Có đạo quân rất hùng tráng kéo cờ Thượng-oai vừa đến Bắc ngạn.
Khai-Quốc vương bảo Đoàn Thông:
- Sư huynh cho thuyền nhỏ đón lạc hầu Hà Thiện-Lãm đến gặp cô gia ngay.
Một lát Hà Thiện-Lãm cùng Lưu Tường, Vi Chấn tới. Khai-Quốc vương nhận ra Lưu, Vi là hai thiếu niên dự tranh châu trưởng với Thiện-Lãm hồi trước. Hai người ước hẹn với Thiện-Lãm rằng hễ ai thắng thì làm châu trưởng. Người bại phải làm phó, cùng hợp tác làm cho châu thêm hùng mạnh.
- Lực lượng sư đệ có bao nhiêu?
- Em có đoàn hổ trăm con, đoàn báo trăm con, chim ưng trăm con, cùng mười thớt voi. Binh sĩ không quá nghìn.
- Được rồi, em đem lực lượng sang sông rồi vào thành, đóng tại trung ương chuẩn bị tiếp ứng các mặt. Nhớ tránh giao tranh. Em dùng thần ưng giúp chúng ta liên lạc.
Vương lấy ra mấy phong thư trao cho Thiện-Lãm:
- Em truyền thư này vào Hoàng-thành cho Khai-Thiên vương, báo ta đã về. Còn ba phong này mời các vị Dực-Thánh, Vũ-Đức, Đông-Chinh vương phải bỏ quân ở ngoài, vào thành họp với ta.
Vương bảo Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Tôn Đản, Cẩm-Thi:
- Chúng ta theo cửa Bắc vào thành.
Tôn Đản dẫn hơn mười chiến sĩ thuộc hạm đội Động-đình đi trước. Một chiến sĩ cầm cờ, có chữ Phụ-quốc thái úy, tả tướng quốc. Một người cầm cây cờ có chữ Khai-Quốc vương. Đến cửa Bắc, thấy quân sĩ phòng vệ uy nghiêm, chàng hướng lên gọi lớn:
- Chư quân mau gọi tướng trấn cửa Bắc ra gặp ta.
Viên đội trưởng lùi xuống, một lát thì Dương Bình với Lê Văn cùng lên cổng thành. Lê Văn thấy Tôn Đản thì reo lên:
- Anh năm. Anh cả đâu?
Tôn Đản chỉ về sau:
- Anh cả sắp tới.
Dương Bình lắc đầu:
- Thế mà Dực-Thánh vương bảo Khai-Quốc vương bị vua Bà Bắc-biên cho quân phục, dùng tên bắn chết rồi.
Vương truyền lệnh phát pháo mở cổng thành, lát sau Khai-Quốc vương tới. Vương lệnh cho Dương Bình:
- Dương huynh nhớ nhé: Quân của Phong-châu sẽ qua sông tiếp ứng trấn cửa Đông. Dương huynh cho họ vào, ta đặt họ dưới quyền Dương huynh.
Vương vào thành, đạo binh Thượng-oai hùng hổ vào theo. Cổng đóng lại. Đạo quân Thượng-oai dàn ra mau chóng trấn trung ương, phòng tiếp ứng các nơi.
Một người từ điện Giảng-vũ phi ngựa tới, cùng với đội thị vệ. Y chính là Tả kim ngô thượng tướng quân Tạ Sơn, quản Khu-mật viện. Phía sau Tạ Sơn có hai người mà vương nhớ nhung ngày đêm: Sư phụ Minh-Thiên, đạo sư Nùng-Sơn tử. Vương cảm thấy mừng run lên được. Vương vội xuống ngựa hành lễ:
- Sư phụ! Nùng đạo trưởng.
Hà Thiện-Lãm thấy Nùng-sơn tử, vội nhảy khỏi bành voi:
- Sư phụ. Lão nhân gia vẫn thường mạnh chứ?
- Ta vẫn mạnh. Con đem quân về tiếp ứng đấy ư? Sao chậm thế? Anh em phái Tản-viên do Nhất-Bách thống lĩnh hơn nghìn cao thủ về tới hôm qua. Tất cả tản vào dân chúng quanh Thăng-long chờ khi dẹp loạn xong, bắt hết dư đảng Hồng-thiết giáo.
Huệ-Sinh nắm tay Khai-Quốc vương:
- Vương gia yên tâm. Tất cả đều tốt đẹp. Tạ sư đệ sẽ trình với vương gia
Khai-Quốc vương hỏi Tạ Sơn:
- Sư đệ. Trông sắc diện sư đệ có hơi mệt. Tình hình ra sao?
- Lê Văn theo Thông-Mai với quận chúa Bảo-Hòa về tới đây đã hai ngày. May nhờ đại sư huynh Dương Bình tổng trấn Thăng-long, các vị ấy mới được vào thành. Đại hiệp Thông-Mai với quận chúa Bảo-Hòa hiện ngày đêm ở cạnh Hoàng-thượng. Em cho Lê đệ theo đại sư huynh Dương Bình tuần phòng kinh thành. Tuy các vương làm loạn, nhưng nhờ có sư phụ với Nùng đạo trưởng giúp đỡ, nên hệ thống tế tác của Khu-mật viện không bị xáo trộn. Sở dĩ quân các vương còn hung hăng, vì Khai-Thiên vương thiếu quyền, thiếu niềm tin của chư tướng.
Vương hỏi Dương Bình:
- Dương huynh là tổng trấn Thăng-long. Dương huynh cho ta biết tình hình phản loạn và tình hình phòng vệ.
- Trước kia thì cả mười đạo quân do thần thống lĩnh. Sau vì Hoàng-thượng bị bệnh, người mới chia cho mỗi thân vương chỉ huy hai đạo. Hai đạo Ngự-long trao cho Khai-Thiên vương. Hai đạo Bổng-nhật trao cho Đông-Chinh vương. Hai đạo Quảng-vũ trao cho Vũ-Đức vương. Hai đạo Quảng-thánh trao cho Dực-Thánh vương. Hai đạo Đằng-hải trao cho Vũ-Uy vương. Khi các vương làm phản thì dùng các đạo quân trực thuộc này công thành.
Thiệu-Thái hỏi:
- Như vậy hai đạo Ngự-long hiện thủ phía trong thành. Ai chỉ huy hai đạo Ngự-long? Còn Cấm-quân với Thị-vệ ra sao?
- Hai đạo Ngự-long do Tả-kiêu vệ đại tướng quân Lý Huyền Sư chỉ huy, hiện đạo Tả Ngự-long trấn cửa Quảng-phúc chống với hai đạo Bổng-nhật do Đông-Chinh vương công hãm. Đạo Hữu Ngự-long phòng cửa Đan-phượng, Đại-hưng chống với hai đạo Quảng-thánh do Dực-Thánh vương công hãm. Còn đạo Cấm-quân do Hổ-uy đại tướng quân Lý Nhân-Nghĩa chỉ huy trấn cửa Phi-long, Tường-phù chống với Vũ-Đức vương và hai đạo Quảng-vũ do Đô-thống Nguyễn Khánh chỉ huy. Thị-vệ thì do Tả kim ngô thượng tướng quân Tạ Sơn quản Khu-mật viện chỉ huy, trấn đóng các cung điện.
Huệ-Sinh nói:
- Thiên-tử binh có mười đạo, thì hai đạo đóng ở Nghệ-an, sáu đạo đặt dưới quyền chư vương. Chư vương dùng quân này làm nỗ lực chính tạo phản. Mỗi vương lại được Hồng-thiết giáo, Nguyên-Hạnh viện cho một hai đạo quân nữa. Nguyên-Hạnh theo Nhật-Hồ lão nhân, được lão phong làm trưởng lão. Trong thành chỉ có hai đạo Ngự-long, hợp với Cấm-quân, Thị-vệ. Đúng ra các vương chiếm được thành ngay ngày đầu. Nhưng nhờ hệ thống tế tác của Khu-mật viện hiệu nghiệm, nên thủy-quân không theo làm phản, thành ra cửa Bắc hóa thành phên dậu trấn thành. Kể ra, muốn đánh tan các đạo quân của chư vương, ta cần quân các trấn, thủy quân. Nhưng Khai-Thiên vương chưa đủ uy gọi quân các trấn với thủy quân cứu viện. Bây giờ Vương-gia về đây thì dẹp phản loạn dễ dàng. Nhưng bần tăng đang tìm kế vẹn toàn sao cho không đổ máu.
Khai-Quốc vương biết sư phụ mình trí tuệ vô biên, mà đức từ bi hỷ xả thực hiếm người theo kịp. Vương ghé tai sát vào người sư phụ. Huệ-Sinh tủm tỉm cười dặn dò vương một lúc. Vương nghe xong kính cẩn chắp tay:
- Đa tạ sư phụ cứu khổ cứu nạn.
Có quân báo:
- Đạo binh Phong-châu hơn nghìn người, mười thớt voi, trăm hổ, trăm báo, hơn trăm chim ưng vừa qua sông, đang chờ lệnh vương gia ở cửa Bắc.
Khai-Quốc vương bảo Lê Văn:
- Em ra đón Thuận-Tông vào, bảo ta truyền cho y giúp Lý Nhân-Nghĩa trấn cửa Đông. Nhớ tránh đổ máu.
Một lát, có tiếng voi rống, hổ gầm, beo tru, rồi trên trời một đoàn chim ưng bay rất đẹp. Lê Thuận-Tông ngồi trên bành voi cùng mấy thiếu niên ngang tuổi, trong đó có Hoàng Tích. Chàng cung tay hành lễ với Khai-Quốc vương:
- Em về trễ, mong anh cả tha tội.
Rồi chàng theo Lê Văn dẫn quân về cửa Đông.
Tạ Sơn trình sẽ với Khai-Quốc vương:
- Có tin Dực-Thánh vương bị Vũ Nhất-Trụ kiềm chế. Đô-thống Nguyễn Khánh chỉ huy hai đạo Quảng-thánh theo bọn Nhật-Hồ. Đông-Chinh vương cũng bị Phạm Trạch kiềm chế. Y bắt giam Vũ-kị đại tướng quân Quách Thịnh. Rồi chính y mang quân, giả lệnh Đông-Chinh vương công thành.
Khai-Quốc vương nói nhỏ với Tạ Sơn, Tôn Đản, Cẩm-Thi mấy câu, rồi ra lệnh:
- Dương huynh vẫn tổng chỉ chỉ huy phòng ngự. Hà Thiện-Lãm đem bản bộ quân mã trấn cửa Diệu-đức . Còn quân của Lê Thuận-Tông cho trấn cửa Phi-long, Tường-phù. Lê Văn trấn cửa Quảng-phúc. Ta với Bình-Dương, Thiệu-Thái vào vấn an Hoàng-thượng đã.
Vương cùng hai cháu dùng khinh công hướng cung Long-thụy. Đám vệ sĩ, cùng binh tướng đạo Ngự-long thấy chúa tướng đồng cúi rạp người xuống hành lễ. Vương tới cửa cung Long-thụy, hai thị vệ kính cẩn:
- Xin vương gia dừng bước. Hoàng thượng ban chỉ bất cứ ai muốn vào vấn an phải do tiên cô Bảo-Hòa dẫn đường.
Y lui vào trong, lát sau Bảo-Hòa ra, nàng quên cả hành lễ với cậu:
- Cậu về mau, bằng trễ e không gặp lại ông ngoại.
Vương bước vào tẩm thất. Trong tẩm thất hiện diện đủ ba vị hoàng hậu Tá-quốc, Lập-nguyên, Lập-giáo, cùng Đàm quý phi. Lại có cả đệ nhị đệ tử của Hồng-Sơn đại phu là Hoàng-Giang cư sĩ đang chẩn mạch cho Thuận-Thiên hoàng đế. Khai-Thiên vương ngồi sau long sàng. Thông-Mai ngồi sát bên Hoàng-đế.
Khai-Quốc vương quỳ gối:
- Phụ hoàng. Hoàng nhi đã về đây.
Thuận-Thiên hoàng đế mở mắt ra nhìn vương, rồi ngài cầm lấy tay vương:
- Vương nhi về kịp, ta mừng lắm.
Tiếng nói của ngài rất yếu ớt.