Anh Linh Thần Võ Tộc Việt
Chương 35 : Hận Tình Chưa Trả Cho Ai -khối Tình Mang Xuống Tuyền Đài Chưa Tan -(đoạn-trường Tân Thanh)
Ngày đăng: 12:12 18/04/20
Sau buổi hội tại Trường-sinh, Khai-Quốc vương dặn Thường-Kiệt:
- Ta để con ở lại với sư phụ Bảo-Hòa một thời gian. Con sẽ có dịp giúp sư phụ dạy sư đệ Trí-Cao thêm ít bản sự. Con là Mật-thư tỉnh-sự của Thái-tử, thì phải thông hết mọi vấn đề, không điều gì trong nước được bỏ qua. Thời gian ở đây, con có dịp tìm hiểu các trang động Bắc-cương. Chỉ ít lâu sau sẽ có cuộc Bắc-chinh của Bắc-biên, bấy giờ con khỏi bỡ ngỡ. Ta nói ít, con hiểu nhiều.
Thường-Kiệt vâng dạ.
Ngay ngày đầu tiên đến Trường-sinh, Thường-Kiệt đã dẫn Hồng-Hạc tới xin lỗi Trí-Cao. Trí-Cao là một loại anh hùng sơn lâm, giận đấy, rồi lại quên luôn. Vì vậy y vui vẻ bỏ qua. Y chỉ nhìn sơ cũng biết những gì đã xẩy ra giữa Thường-Kiệt với Hồng-Hạc.
Sau ba ngày hội họp, Trí-Cao rủ Thường-Kiệt, Hồng-Hạc đi săn đêm. Rừng Bắc-biên là nơi nhiều thú hoang nhất Đại-Việt. Trí-Cao dẫn hai người dùng ngựa đi men theo bờ suối. Trí-Cao nói:
- Mùa này là mùa hươu chồi lộc ra. Ban ngày chúng ăn cỏ non, đêm đêm chúng tìm đến suối uống nước. Vì vậy chúng mình cứ phục ở bờ suối là bắn được nai ngay.
Đến một ngọn thác, nước từ cao đổ xuống, ánh trăng chiếu vào như những cột vàng lóng lánh. Trí-Cao nói sẽ vào tai Thường-Kiệt:
- Sư huynh! Đệ giả bầy ra cuộc đi săn để sư huynh với Dương tiểu thư có dịp tận hưởng xuân tình tuổi hoa giữa cảnh trời đất mênh mông. Chứ đi săn thực, đệ phải mang cả đàn chim ưng, mấy bầy sói, chứ có đâu chỉ cung tên.
Thôi sư huynh cứ tự tiện, đệ trốn đây.
Y nói lớn cho Hồng-Hạc nghe:
- Sư huynh với sư tỷ ngồi đây chờ nai nghe. Đệ sang bên kia suối rình hoẵng. Chúc sư huynh, sư tỷ hạnh phúc.
Nói rồi y phi ngựa biến vào rừng. Thường-Kiệt, Hồng-Hạc vừa mới nếm hương vị tình yêu, thì phải xa nhau. Bây giờ hai người đối diện nhau trong cảnh rừng núi u tịch của mùa Xuân. Hồng-Hạc lên tiếng trước:
- Đại ca... Anh, xa nhau ba ngày mà em tưởng như chúng mình xa nhau hằng trăm năm. Em nhớ kinh Thi nói rằng Nhất nhật bất kiến như tam thù hề, nghĩa là một ngày không gặp nhau tưởng như dài bằng ba năm , thực không sai.
Thường-Kiệt nhảy xuống cầm cương ngựa của chàng, của Hồng-Hạc cột vào gốc cây, rồi dìu nàng ngồi lên tảng đá bên suối. Hồng-Hạc dựa đầu vào vai Thường-Kiệt, rồi ngửa mặt nhìn trăng:
- Anh này, anh liệu Thái-tử Nhật-Tông có còn ghét em không?
- Anh nghĩ là không. Sư thúc anh là người quảng đại, đức nhân thực sâu sa vô cùng, lúc nào người cũng nghĩ rằng sau này lên làm vua phải tìm cách giáo hóa dân chúng; để trong nước không còn nhà tù nữa. Việc em nóng nảy ở Bắc-ngạn, người than với anh: Cái tội nóng nảy chỉ đáng đánh đòn, mà Ưng-sơn giết anh của Hồng-Hạc, như vậy là đủ rồi. Xét câu nói này, thì đủ thấy người không còn ghét em nữa đâu.
- Em nghe phò mã Thiệu-Cực nói rằng người đã biết rõ thầy đồ là ai, nội trong một tháng người sẽ bắt thầy đồ xuất hiện. Người đặt điều kiện rằng nếu người bắt thầy đồ xuất hiện thì tiên cô với vua Bà phải đồng ý cho anh được lấy em làm vợ, mà không phải cưới cô em họ Thuần-Khanh, có đúng không?
- Lúc phò mã nói chuyện với sư phụ, với vua Bà, anh đứng cạnh. Không hiểu sao chuyện chúng mình người biết được?
Hồng-Hạc dựa vào vai Thường-Kiệt:
- Thì có khó gì đâu. Em thử giải đoán xem nghe. Khi anh với em gần nhau đêm ấy, thầy đồ ở cạnh, nên thầy bỏ thư vào túi áo cảnh cáo anh. Phò mã Thiệu-Cực nói biết thầy đồ là ai, hẳn hai người thân với nhau lắm. Vậy có thể chính thầy đồ kể chuyện chúng mình cho phò mã nghe, rồi nhờ phò mã giúp anh em mình.
Thường-Kiệt quàng tay ôm sát Hồng-Hạc vào người:
- Anh em mình thành vợ chồng thì coi như oán thù giữa Dương gia với Trường-sinh sẽ xoá hẳn, mà Ưng-sơn sư thúc cũng không còn hằm Dương gia nữa.
- Em nghe nói thời thơ ấu ba sư thúc Tôn Đản, Tự Mai, Lê Văn là ba mỹ nam tử, văn học, võ công cao minh không biết đâu mà lường. Tại sao sư thúc Tôn Đản lại không thích làm quan?
- Em dư biết anh hùng thì đa tình. Ba sư thúc của anh đều thuộc loại đa tình số một số hai thời Thuận-Thiên. Đa tình nhất là sư thúc Tôn Đản, mà sư thẩm Cẩm-Thi lại cực kỳ ôn-nhu, văn-nhã, tài sắc tuyệt vời. Vì vậy sư thẩm Cẩm-Thi bàn gì sư thúc cũng nghe theo. Sư thẩm muốn hai vợ chồng trồng dâu, nuôi tằm, cấy hoa. Sư thúc hưởng ứng ngay.
- Anh thực may mắn là được tới bốn người đàn bà nhân phẩm nhất thế gian yêu thương. Một là sư thúc Thanh-Mai, hai là sư phụ Bảo-Hòa, ba là vua bà Bình-Dương, bốn là sư thẩm Cẩm-Thi. Vậy trong bốn người, anh yêu bà nào nhất?
- Anh kính yêu mỗi vị một cách khác. Mẫu thân anh thì thực là bà mẹ hiền. Mẹ hiền như hoa mẫu đơn, không hương, nhưng cùng máu thịt, tình sâu như biển. Sư phụ Bảo-Hòa thì anh kính như thiên tiên. Vua bà anh thờ như thờ Quan-thế-âm. Còn sư thúc Thanh-Mai, anh yêu người vừa như yêu bố lẫn yêu cô. Riêng sư thẩm Cẩm-Thi thì mỗi lần gặp bà, anh như ấm áp trong lòng vậy.
- Còn em, anh yêu em như thế nào?
Thường-Kiệt đặt lên môi Hồng-Hạc cái hôn.
Một đám mây trắng trôi qua bầu trời che mất mặt trăng, rừng núi bị bóng đen mịt mờ bao phủ. Chim quốc kêu khắc khoải não nuột.
Thường-Kiệt rùng mình tỉnh trước. Hồng-Hạc hỏi:
- Anh này.
- Gì vậy?
- Em nghe luật của tiên cô ban cho đệ tử chỉ được một vợ một chồng thôi phải không? Nếu như thế sau này cưới em rồi anh không thể có thêm thứ thiếp, tỳ nữ nữa à?
- Đúng thế.
- Chả cần tiên cô ra luật, em đã nguyện rồi: anh là người con trai đầu tiên chạm vào cơ thể em, thì vĩnh viễn cuộc đời này em là của anh, anh là của em. Dù hoàn cảnh nào, em cũng không để anh về tay người khác. Anh mà bỏ em, thì em giết anh trước. Không ăn được thì đạp đổ, thế thôi.
Thường-Kiệt rùng mình, nói gượng:
- Việc đó lọ là em phải đe, nếu anh vợ nọ con kia, thì chính tiên cô rút gân, chặt đầu anh trước.
Có tiếng chân người lại gần. Thường-Kiệt nói nhỏ:
- Chắc là Trí-Cao.
Quả nhiên Trí-Cao tới thực, y cười:
- Sư huynh với Dương cô nương bắn được mấy con nai rồi?.
Thường-Kiệt xấu hổ:
- Chả được con nào cả.
Trí-Cao cười, tay chỉ sang bên kia bờ suối:
- Không phải sư huynh bắn, thế ba con nai kia tự nhiên lăn đùng ra chết đấy?
Thường-Kiệt kinh ngạc, vì quả bên kia bờ suối có ba con nai nằm chết. Một con nửa người ngâm dưới nước, một con nằm vắt bên tảng đá, một con còn đang dẫy dụa. Chàng xấu hổ nghĩ thầm:
- Mình với Hồng-Hạc mải tình tứ, không ngờ ba con thú đến gần cũng không biết, Trí-Cao nhanh tay bắn chúng, mà mình không hay.
Chàng xấu hổ:
- Phải chăng sư đệ đã bắn?
- Không. Đệ có ở đây đâu mà bắn.
Nói rồi y lội qua suối. Thường-Kiệt cũng lội theo sau. Chàng kinh ngạc, khi không thấy tên ghim trên thân thú. Mỗi con đều có lỗ thủng trên đầu bằng quả chanh. Trong lỗ thủng là một viên đá.
Trí-Cao móc ba viên đá trong đầu ba con nai ra xem, kinh nghiệm săn bắn nhiều y nói:
- Ba con thú này đi uống nước, bị một người bắn đá từ phía trái, xuyên thủng từ tai vào đầu. Vậy người này nấp ở phía phải sư huynh.
Hồng-Hạc cầm viên đán xem rồi than:
- Lối dùng kình lực bắn đá là thủ pháp của phái Tản-viên. Người này vận âm kình, nên không có tiếng kêu vi vu. Xét kỹ trong phái Tản-viên chỉ tiên cô mới có công lực này mà thôi. Không lẽ tiên cô ra tay?
Thường-Kiệt lắc đầu:
- Tiên cô hành động đường đường, chính chính, chứ có đâu lại dấu thân phận? Ngu huynh nghĩ là thầy đồ. Chắc thầy ở quanh đây chứ không xa.
Chàng lên tiếng:
- Sư thúc, xin sư thúc cho cháu được tương kiến.
Thường-Kiệt đỏ mặt lên, xấu hổ với cô em. Chàng nói lảng:
- Thôi, mình nói chuyện khác đi.
- Anh không muốn nói chuyện đó thì thôi. Ta bàn chuyện nhà vậy. Bố nói tháng sau làm lễ cưới cho chúng mình. Sư phụ em bảo phải bàn với bố Long-Bồ đã.
- Ừ, các cụ bàn phải đấy, ai đời trai mười sáu, gái mười ba là thành gia thất, chỉ có chúng mình được sư phụ, bố mẹ nuông chiều, lớn quá rồi mới bị vào lồng, mới bị mắc câu.
Có tiếng nói trầm trầm, giọng phụ nữ:
- Con gái hai mươi, tồng ngồng ra, rõ ràng chống ề, nay được người ta đắt cho là phúc rồi, mà còn làm cao ra cái điều chim vào lồng biết thủa nào ra, cá cắn câu biết đâu mà gỡ. Hừ!
Hai người giật mình ngó theo bức tường bên trái thì thấy một phụ nữ tuổi khá già, da dăn deo, ngồi như pho tượng, mắt chiếu ra tia hàn quang nhìn thẳng vào phương trời xa xăm, tay cầm cái roi trúc nhỏ.
Thường-Kiệt, Thuần-Khanh lờ đi như không nghe lời trêu chọc của bà già. Bà già tiếp:
- Trai sắp có vợ, lại là đệ tử danh gia, con nhà nòi, giữa chỗ đông người, đi sờ tí beo lương gia phụ nữ, bị người ta bỏ vào tù. Bây giờ bị cật vấn lại đánh trống lảng.
Thường-Kiệt biết đây là dị nhân, chàng chắp tay:
- Tiểu bối có mắt như mù, xin tiền bối cho biết cao danh quý tính?
Bà lão không nói không rằng, tay rung động, cái roi duỗi ra cuốn lấy chân Thuần-Khanh rồi giật mạnh. Thuần-Khanh bay bổng lên cao. Bà già nhảy vọt tới kẹp nàng vào nách.
Diễn biến xẩy ra quá đột ngột, Thường-Kiệt chưa kinh nghiệm, nên không phản ứng kịp.
Bà lão tung mình chạy. Thường-Kiệt đuổi theo, tới bức tường, bà vọt lên cao, Thường-Kiệt phóng theo một chiêu chưởng. Bà lão đẩy trở lại một chiêu. Chưởng lực gặp nhau, bình một tiếng, Thường-Kiệt bật lui liền hai bước, khí huyết chạy nhộn nhạo cực kỳ khó chịu. Chàng nhận ra đó là chiêu Phong-ba hợp bích trong Đông-a chưởng pháp.
Thường-Kiệt hô:
- Thuần-Khanh, mau điểm huyệt.
Tuy Thuần-Khanh bị bà già kẹp ở nách, nhưng chân tay con cử động được. Nàng vung tay điểm huyệt Đại-trùy của bà. Trong khi Thường-Kiệt xuất chiêu Ác-ngưu nan độ tấn công. Bà già cười khì rồi tung mình chạy, thành ra chưởng của Thường-Kiệt đánh vào chỗ không. Còn tay Thuần-Khanh điểm trúng huyệt của bà đến bộp một cái. Nàng cảm thấy như mình điểm vào phiến đá, tay đau nhức không chịu được.
Bà già vỗ tay vào vai Thuần-Khanh, huyệt Kiên-ngung của nàng bị điểm, toàn thân trở thành tê liệt.
Bà già kẹp Thuần-Khanh chạy trước, Thường-Kiệt đuổi theo sau. Đến bãi cỏ rộng, ở đó đã có hai người dường như ngồi chờ. Thường-Kiệt nhận ra một trong hai người là thầy đồ. Bà già vỗ nhẹ vào vai Thuần-Khanh rồi tung nàng lên cao. Huyệt đạo được giải, nàng lộn đi một vòng, từ từ đáp xuống. Thường-Kiệt đã tới nơi. Bà già vẫy tay ra hiệu cho Thuần-Khanh lui ra, rồi phát chưởng tấn công Thường-Kiệt. Thường-Kiệt vội vận Phục-ngưu thần chưởng chống lại.
Đấu được khoảng trăm hiệp, Thường-Kiệt nhận thấy nội công của bà già là nội công Đông-a, nhưng cực kỳ thâm hậu, có lẽ ngang với sư phụ Bảo-Hòa. Dường như bà già muốn khảo nghiệm võ công của chàng, nên bà chỉ đánh cầm chừng. Đấu thêm mười hiệp nữa, bà già đẩy một chưởng, người chàng bay bổng lên cao, rồi rơi xuống cạnh Thuần-Khanh.
Thầy đồ bảo Thường-Kiệt:
- Con mau quỳ gối ra mắt tiền bối đi.
Thấy sư thúc ra lệnh, Thường-Kiệt vội quỳ gối lạy:
- Đệ tử tham kiến tiền bối.
Bà già để cho Thường-Kiệt lạy, bà không đáp lễ. Khi hết ba lễ, thầy đồ bảo:
- Thôi đủ rồi.
Thường-Kiệt kinh hãi vô cùng, vì theo lễ nghi hồi ấy, khi ra mắt sư thúc, sư bá chàng phải lạy tám lạy, chỉ khi ra mắt bố mẹ, chú thím mới lạy ba lạy. Nhưng thày đồ bảo thôi chàng cũng thôi.
Bà già vẫy Thường-Kiệt, Thuần-Khanh lại bên cạnh. Bà ôm lấy Thuần-Khanh, tay vuốt tóc Thường-Kiệt, nước mắt nhỏ dài trên má. Chàng thấy hương thơm từ bà già bốc ra quen thuộc vô cùng, song chàng không nhớ là hương thơm của ai. Chàng điểm lại, hương thơm của sư phụ Bảo-Hòa ngát như trầm, hơi thoang thoảng hoa dạ lý. Hương thơm của vua bà Bình-Dương nhẹ nhàng như hương sen. Hương thơm của thân mẫu thì giống mùi hoa nhài. Còn hương thơm bà già?
Thường-Kiệt cung kính:
- Xin tiền bối cho biết cao danh quý tính.
Bà già vẫn khóc, nhưng không trả lời.
Một lão già ngồi cạnh thầy đồ từ đầu đến cuối không lên tiếng, bây giờ lão mới nói:
- Bé con, người có mấy cái lưỡi?
- Thưa tiền bối cháu chỉ có một cái.
- Vậy ta sẽ cho người biết chúng ta là ai. Nhưng cuộc tao ngộ hôm nay người không được tiết lộ, bằng không ta cắt lưỡi. Nghe không?
Bà lão ôm lấy đầu Thường-Kiệt rồi tự lột mặt nạ ra. Thường-Kiệt bật lên tiếng kêu đầy kinh ngạc. Tiếp theo lão già với thầy đồ lại lột mặt nạ ra. Chàng lại la úi chà rồi vội đứng dậy sửa quần áo ngay ngắn hướng lão già lạy tám lạy. Lão cười:
- Hay thực.
Tay lão vời một cái, người Thường-Kiệt bay bổng đến bên lão. Lão nói nhỏ:
- Trong suốt mấy năm qua, ta lặn lội khắp Trung-nguyên sưu tầm võ công của các gia các phái, rồi tìm ra yếu quyết phá võ công họ. Nay ta truyền cho cháu. Lúc nhàn rỗi, cháu hãy luyện tập, để sau này Bắc-chinh còn có chỗ xử dụng.
Nói rồi lão đọc vào tai Thường-Kiệt. Vốn thông minh tuyệt đỉnh, Thường-Kiệt chỉ nhẩm có một lần là thuộc làu.
Bỗng thầy đồ chỉ lên trời:
- Ta đi thôi, kẻo chim ưng dẫn tên Tạ Sơn đến thì phiền lắm.
Ba người chuyển động một cái, đã mất hút vào thôn xóm. Thường-Kiệt nhìn lên trời, quả có năm con chim ưng của Khu-mật viện đang bay lượn. Chàng nói nhỏ:
- Chim này của bố em hả?
Thuần-Khanh lắc đầu, chưa kịp trả lời thì thấy Khai-Quốc vương với Tôn Mạnh, và Thanh-Nguyên tới. Hai người vội hành lễ. Thanh-Nguyên hỏi:
- Thường-Kiệt, phải chăng người vừa tương kiến với phụ thân ta, cùng anh Thông-Mai, chị Thanh-Mai?
Thanh-Nguyên tuy ngang tuổi với Thường-Kiệt, nhưng nàng là con út của Trần Tự-An, tức ngang vai với thân phụ chàng. Chàng chắp tay cung kính:
- Thưa sư thúc...
Thanh-Nguyên bật cười:
- Phải chăng phụ thân ta cấm ngưười không được tiết lộ, bằng không sẽ bị cắt lưỡi?
- Đệ tử...
Tôn Mạnh hú lên một tiếng, rồi chỉ vào Thường-Kiệt, Thuần-Khanh, bốn con chó từ xa chạy lại chúi mũi áo hai người mà ngửi, ngửi chán chúng vẫy đuôi. Thanh-Nguyên nhìn Khai-Quốc vương:
- Anh ơi, bố, anh hai, chị ba thực. Nhưng họ còn giận anh, nên chưa muốn xuất hiện, thì đành chịu.
Nàng nói với Thường-Kiệt:
- Ta biết thân phụ mới từ Xiêm về, thế nào cũng cùng với anh cả ta, chị Thanh-Mai tương hội. Anh cả ta tất khen mi hết lời, như vậy ba người sẽ tìm mi để thử võ công. Vì thế ta báo cho bố Long-Bồ của người biết. Bố Long-Bồ vờ sai người đi Cổ-loa, rồi cho chim ưng theo dõi. Quả nhiên suýt nữa bắt được ba người.
- Thưa sư thúc...
- Người sợ bị cắt lưỡi ư? Đừng lo, bố ta chỉ dữ với người ngoài, còn đối với con cháu thì người là ông Phật. Ông đe cắt lưỡi người cũng như đe đánh bọn ta què, nhưng có bao giờ ông đánh đâu? Người chối thế nào được, khi ta cho chó ngửi y phục của chị hai để biết hơi chị. Ban nãy chị hai ôm hai đứa mi, hơi còn đó, chó đã nhận được. Hà, hà...
Sự thực Thường-Kiệt định chối rằng những điều Thanh-Nguyên ước tính sai hết. Nhưng bà không cho chàng nói, nên đành im lặng.