Anh Linh Thần Võ Tộc Việt
Chương 38 : Anh linh tộc việt
Ngày đăng: 12:12 18/04/20
Niên hiệu Thiên-cảm Thánh-vũ thứ 5 ( Mậu-Tý, 1048 ), đời vua Lý Thái-tông, mùa Thu tháng tám, ngày Giáp-Thân bên Tống nhằm niên hiệu Khánh-lịch thứ tám đời vua Nhân-tông. Suốt mấy đêm công chúa Bảo-Hòa, chưởng môn phái Tản-viên cùng các trưởng lão nghiên cứu thiên văn. Nào quan sát thiên tượng, nào so sánh chư tinh, rồi quyết định: Thiên tượng cực tốt cho việc Bắc-tiến, vì các tinh ứng với vua, cùng đại thần Tống đều lu mờ. Trong khi chư tinh ứng với bản mệnh vua, đại thần, tướng soái tộc Việt sáng chói.
Đúng lúc đó chim ưng của tế tác Đại-Việt báo: sứ đoàn Hoàng-Giang cư sĩ sẽ triều kiến vua Tống vào ngày Đinh-Hợi. Sứ đoàn Dư Phi đã trở về an toàn. Lại có tin của tế tác do Trần Phụ-Quốc gửi về:
"... Triều Tống chia làm hai phe tranh cãi nhau kịch liệt. Phe chủ hoà đổ hết lỗi lên đầu phe chủ chiến. Phe chủ chiến cho rằng bọn Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh, Ky Mân, Dương Điền, Tôn Miễn hành sự vụng về để bị lộ âm mưu Nam tiến, trong khi Tống chưa chuẩn bị xong. Triều đình sai sứ xuống lưỡng Quảng để lo giảng hòa... "
Công chúa khẩn triệu tập Bắc-tiến đạo, hành doanh mã-bộ-quân tổng lĩnh (sử thường gọi tắt là Bắc-tiến tổng hành doanh), để cùng các quan tham mưu duyệt xét lại tình hình cuối cùng: nào tin tức Tống triều, nào tin tức các phủ huyện, châu quận Lưỡng-Quảng, nào tình hình binh tướng Đại-Việt, nào việc tồn trữ vận chuyển lương thảo.
Sau cùng công chúa sai thư lại viết lệnh, truyền Hoàng Tích bỏ vào ống dưới chân chim ưng. Đến giờ Dần, công chúa đích thân ra sân tung lên trời hai mươi chim ưng. Mỗi con bay về một phương, dưới chân chúng đều mang bức thư. Một trong những bức thư đó tới động Trường-sinh vào giờ Mão. Khu-mật viện Trường-sinh tiếp thư, vội đánh thức Trường-sinh hầu Nùng Trí-Cao dậy. Trí-Cao cung kính mở thư ra, trong vỏn vẹn có mấy chữ:
Ngày Quý-Tỵ, giờ Dần.
Trí-Cao vội ăn sáng, rồi đến Khu-mật viện, đích thân thảo lệnh, triệu hồi khẩn cấp các tướng tá, động chủ, châu trưởng về họp. Giờ Ngọ, tất cả đều có mặt, vừa lúc đó vua bà Bình-Dương, phò mã Thân Thiệu-Thái, Hoa-sen quận vương Lê Văn, phò mã Hà Thiện-Lãm, công chúa Trường-Ninh đều tề tựu. Trí-Cao sai kiểm điểm lại việc canh phòng, rồi trịnh trọng đứng lên nói:
- Thưa các vị, ngày mà chúng ta chờ đợi đã tới. Sư phụ ban lệnh giờ Dần ngày Quý-Tỵ thì xuất quân. Tổng chỉ huy ba đạo quân là vua Bà. Quân sư là sư huynh Lý Thường-Kiệt của tôi.
Lý Thường-Kiệt cùng Thuần-Anh, Thuần-Khanh từ trong đi ra. Ba người đến trước vua Bà hành lễ. Vua Bà thấy Thường-Kiệt, Thuần-Khanh thì giật mình hỏi:
- Hai con từ đâu tới đây? Đến từ hồi nào?
Thuần-Khanh cúi đầu:
- Thưa sư phụ, chúng con từ núi Tản mang lệnh của tiên cô qua từ đêm trước.
Đã lâu rồi, nghĩa là từ ngày xẩy ra vụ án Bắc-ngạn, triều đình Trường-sinh đều nghe nói nhiều về Thường-Kiệt. Nào Thường-Kiệt đầy lòng hiệp nghĩa, dùng võ công đánh anh em họ Dương cứu Nùng Trí-Cao. Nào thân mẫu Thường-Kiệt là sư muội của phu nhân Nùng Tồn-Phúc. Nào Thường-Kiệt dạy võ công cho Trí-Cao. Nào cũng chính vì Thường-Kiệt cứu Trí-Cao mà Dương hoàng-hậu, cùng Vương phi thái-tử ám hại bằng cách bỏ thuốc mê, rồi đem thiến. Nay họ thấy Thường-Kiệt ở hẳn trong động Trường-sinh, thì mọi người đều vui mừng rằng mình thêm một nhân tài trợ giúp.
Nguyên từ sau thảm cảnh Thường-Kiệt bị tĩnh thân, Thuần-Khanh với chàng bị mất tích đến nay mấy năm, mặc dù triều đình ra công tìm kiếm, nhưng vẫn không thấy hai người đâu. Bây giờ vua bà Bình-Dương nghe nói hai người đến từ núi Tản thì nghĩ rằng chúng được Bảo-Hòa đưa về đó ẩn thân.
Thuần-Anh hướng vua Bà:
- Công chúa điện hạ. Vì bảo đảm an ninh cho tính mệnh Thường-Kiệt với Thuần-Khanh, chính mụ già này tuân lệnh tiên cô đón chúng về núi Tản dưỡng bệnh. Sau lại tuân lệnh tiên cô làm lễ cưới cho Thuần-Khanh với Trí-Cao. Nghĩ Thuần-Khanh là đệ tử của công chúa, mà lão không cáo với công chúa thực có lỗi lớn, nhưng tiên cô cấm, nên lão già này đành chịu.
Vua Bà cầm tay Thuần-Khanh:
- Việc trăm năm của con do tiên cô lo cho thì thực ta cầu mà không được.
Khai-Hoàng vương tiến đến nắm tay Thường-Kiệt:
- Thằng con nuôi thối tha này. Từ hôm người bị nạn đến giờ người biệt tăm. Ta ăn không ngon, ngủ không yên. Nhiều lần ta khóc vì tưởng người chết rồi, hóa ra người ẩn ở trên Tản-lĩnh. Sau trận này, người mà không về ở với ta, ta quyết... ta quyết không nhìn mặt người nữa.
Thường-Kiệt thấy tình cảm của sư thúc, chàng cũng rơi nước mắt:
- Sư thúc tha tội. Vì cháu ở cạnh sư phụ. Mà sư phụ cấm không cho cháu xuất hiện, nên nào dám về gặp sư thúc.
Thường-Kiệt bước lên trướng, rồi cung tay hành lễ với vua Bà:
- Thưa sư thúc, con xin nghe chỉ dụ của sư thúc.
Vua Bà nói:
- Trước đây tiên cô ban lệnh cho đạo quân Trường-sinh đánh ngược lên Liễu-châu, Quế-lâm, sau đó chiếm Ngũ-lĩnh, rồi án binh tại đây, không cho Tống đem quân cứu Lưỡng-Quảng. Nhưng đó là hư kế, vì sợ tế tác Tống biết được. Thực sự kế hoạch khác hẳn. Hôm nay Thường-Kiệt sẽ trình bầy với các vị.
Thường-Kiệt vẫy tay ra hiệu, hai đệ tử Tản-viên mang ra một trục lụa lớn bằng cái chiếu, trên ghi chú đầy đủ đường xá, sông ngòi, cùng thành trì, nơi đồn trú quân cùng chỗ chứa lương thảo của Tống. Bản đồ này Trí-Cao đã tốn không biết bao nhiêu công sai tế tác đi sưu tầm mấy năm liền.
Thường-Kiệt chỉ lên bản đồ:
- Kế hoạch hành quân này do chính sư phụ tôi soạn thảo rất chi tiết. Nay tôi xin truyền lại. Cánh quân của sư thúc Lê Văn sẽ xuất phát từ Điền-đông, thình lình tiến lên vượt sông Giang-thủy đánh Liễu-châu. Liễu-châu là châu trị của toàn vùng Quảng-Tây. Tại Liễu-châu, Tống có khoảng năm nghìn quân. Nhưng ta đổ quân vào như sét nổ, ắt chúng không chuẩn bị kịp. Sau khi chiếm Liễu-châu, thì tiến lên chiếm Quế-châu sau đó chiếm Linh-lăng. Sư thúc chỉ đánh ba thành lớn thôi. Còn những thành, đồn nhỏ thì bỏ qua. Khi tới Ngũ-lĩnh thì sư thúc toàn quyền quyết định vượt lĩnh đánh Trường-sa hay án binh bất động.
Lê Văn cau mày:
- Lệnh của sư phụ con bắt ta thi hành hơi mạo hiểm. Ta tiến nhanh như vậy, dọc đường có tới chín thành nhỏ. Chúng chặn đường tiếp tế lương thảo thì ta ắt gặp hung hiểm.
Thường-Kiệt cung tay:
- Sư thúc cẩn thận như vậy thực phải. Nhưng giờ này các đội đệ tử Đông-a đang ẩn thân ngoài những kho chứa lương thảo của Tống. Khi sư thúc chiếm thành lớn rồi bỏ lại thành nhỏ thì công chúa Trường-Ninh với phò mã Hà Thiện-Lãm tiến theo sau, thanh toán các đồn này. Đệ tử Đông-a sẽ làm nội ứng giúp công-chúa với phò-mã chiếm các kho lương thảo. Đại sư bá Trần Phụ-Quốc thân chỉ huy tế tác giúp sư thúc.
Lê Văn hỏi:
- Tất cả những đồn nhỏ dọc đường từ đây đến Ngũ-lĩnh ta không sợ cho lắm. Duy hai châu Điền-đông, Liên-thủy, mỗi nơi Tống có ba nghìn quân trấn đóng, với viên huyện lệnh và viên chỉ huy sứ, là ta ngại nhất.
- Thưa sư thúc, sư phụ cháu định sẵn:
Trấn-võ đại tướng quân, Vũ-dương hầu Tôn Quý cùng phu nhân Phùng Kim-Thanh đồng xuất phát với sư thúc. Ngay buổi sáng sớm, hầu đánh úp Điền-đông, rồi để cho phu nhân tổ chức cai trị. Còn hầu tiến cùng sư thúc. Đến Liên-thủy, trong khi hầu đánh huyện này, sư thúc vẫn cứ tiến quân.
Dư Phi thêm vào:
- Khi đi sứ, cháu chú ý, thấy quân sĩ của Liễu-châu đóng làm ba khu vực ở trong thành. Thường ngày một phần ba về làm ruộng. Hai phần ba canh gác. Nhưng thực tế họ ở lẫn với dân, rất khó tập hợp.
Thường-Kiệt nói với công chúa Trường-Ninh:
- Công chúa cùng Hà phò mã đem quân đi sau đạo của Lê sư thúc, tiếp quản, trấn nhậm Liễu-châu, Quế-châu, Linh-lăng, cùng đánh chiếm những đồn ải nhỏ, mà sư thúc Lê Văn bỏ qua.
Chàng đưa mắt cho Trí-Cao:
- Nhiệm vụ của đạo Hoa-sen, Thượng-oai coi như phên dậu che cho các đạo quân đánh Lưỡng-Quảng. Bây giờ tới đạo chính binh của Trường-sinh. Sư đệ Trí-Cao dùng quân Trường-sinh tỏa về phía Đông, dọc Tả-giang, Hữu-giang đánh thành Hoành-châu, Quý-châu, Ung-châu, Củng-châu, Tầm-châu, Đằng-châu, Thương-ngô, Phong-châu, Đoan-châu, Khang-châu. Tới đây sẽ gặp đạo binh của công chúa Kim-Thành đánh từ Đông về Tây.
Trí-Cao hỏi:
- Đệ đánh như vậy, thì hông phải còn hàng chục đồn, chúng cắt ngang đường về thì sao?
- Sư phụ đã ước tính rồi. Khi sư đệ tiến như vậy thì phía Nam, quân của Lạng-châu, Phong-châu sẽ đánh chiếm tất cả các đồn hông phải, hông trái cho sư đệ. Hai đạo này vượt biên chiếm Khâm-châu, Liêm-châu, Khúc-giang, Quảng-châu.
Thường-Kiệt nói với Thiệu-Cực:
- Bây giờ tới đạo binh đánh Quảng-Đông. Sư phụ định rằng sư bá tổng chỉ huy quân Phong-châu, Lạng-châu vượt biên đánh Khâm-châu, Liêm-châu lên Quảng-châu, rồi chiếm Khúc-giang, Triều-dương, Đông-sơn. Sư phụ dạy: sư bá là túi khôn thiên hạ thêm tài dùng binh của sư thúc Tôn Đản, sư thẩm Cẩm-Thi, sư bá thiết kế lấy.
Vua Bà tiếp lời Thường-Kiệt:
- Tóm lại chúng ta có năm đạo binh khác nhau. Một là đạo Hoa-sen đánh chiếm Ngũ-lĩnh. Hai là đạo Thượng-oai đi sau đạo Hoa-sen để chiếm các châu quận mà đạo Hoa-sen vượt qua, cùng trấn nhậm, tổ chức cai trị vùng Liễu-châu, Quế-châu, Linh-lăng. Đạo thứ ba là Trường-sinh hành động độc lập, đánh từ Tây sang Đông. Đạo này hai sư huynh Bảo-Dân, Trung-Đạo cùng Trí-Cao chỉ huy. Tôi với triều đình Bắc-cương sẽ lĩnh nhiệm vụ an dân. Thường-Kiệt đi theo tôi.
Vua Bà ngừng lại đưa mắt cho Thân Thiệu-Cực; Tôn Đản, Cẩm-Thi; Tôn Mạnh, Thanh-Nguyên; Lưu Tường. Thiệu-Cực nói:
- Xin đạo sư tùy tiện.
Nam-Sơn đạo sư nói với Thuần-Anh:
- Bần đạo biết rằng xử dụng võ công với phu nhân là vô phép. Nhưng bất đắc dĩ.
Nói rồi lão rút kiếm ra chiêu Hoa-sơn, giống như hành lễ vậy. Thuần-Anh nghĩ thầm:
- Trước đây nghe vua bà Bình-Dương khó nhọc lắm mới thắng nổi Đông-Sơn lão nhân với mụ Tăng Tuyết-Minh. Không biết mình có chịu nổi lão này không?
Bà cũng rút kiếm ra chiêu Hoa-khai kiến Phật của Long-biên kiếm pháp giống như hành lễ, rồi chuyển lên hướng vào cổ lão. Lão nhảy lui lại ba bước rồi phóng một chiêu như ánh chớp vào cổ bà. Thuần-Anh đảo kiếm đưa vào ngực lão. Lão lộn người đi hai vòng, rồi mới trả đòn.
Kiếm pháp Hoa-sơn vốn lấy mau thắng chậm, kiếm pháp Long-biên cũng cùng một nguyên tắc, nên chi người đứng ngoài không còn phân biệt được Thuần-Anh với Nam-Sơn nữa. Khi xử dụng cả hai loại kiếm pháp, đều tổn hao rất nhiều công lực. Cho nên được trên trăm hiệp, thì Thuần-Anh bắt đầu kém thế, vì công lực thấp hơn. Bà cứ phải lùi dần.
Cặp cọp mun là linh vật của rừng núi Trường-sinh, chúng thấy chủ mẫu gặp nguy khốn thì gầm lên rồi song song nhảy vào vồ Nam-Sơn lão nhân. Lão nhân kinh hãi vội nhảy lui lại tránh thế vồ, thì một con nằm rạp xuống nhảy vào chụp chân lão. Một con nhảy lên vồ vào ngực lão. Lão tung mình lên cao tránh, thì kiếm của Thuần-Anh lại đưa vào hạ bàn. Không hổ là Hoa-sơn tứ lão. Nam-Sơn lão nhân phóng một chưởng xuống đầu hai con hùm, còn tay kia vung kiếm đỡ chiêu của Thuần-Anh.
Nhưng cặp cọp mun được huấn luyện rất chu đáo về võ công Mê-linh, khắc chế võ công Hoa-sơn, vì vậy chúng né tránh dễ dàng, rồi nhảy vọt lên vồ lão. Lão kinh hoàng, mượn đà đỡ kiếm của Thuần-Anh vọt ra xa. Lão vừa đáp xuống thì đôi cọp lại chuyển mình đuổi theo. Lão vội tung mình ra sân, nhưng lão bị đàn beo vây kín như thành đồng vách sắt.
Lão đeo kiếm vào lưng rồi xuất chưởng. Chưởng của lão đẩy bay tung bốn con beo một lúc, vòng vây có chỗ hở, lão lách mình chạy ra ngoài thành.
Thuần-Anh hú vía, bà cho đàn sói đi lùa hết đám tàn binh trong thành, phân loại rồi kiểm kê tài vật. Mọi việc xong xuôi, thì có thân binh báo:
- Vua Bà giá lâm.
Thuần-Anh cùng các tướng vội dàn quân, rồi ra ngoài thành đón vua bà Bình-Dương. Vua Bà vẫy tay miễn lễ rồi hỏi:
- Sao, sư bá đấu với Nam-Sơn lão nhân được mấy hiệp?
Thuần-Anh hỏi ngược lại:
- Thần chỉ chống với lão được hai trăm hiệp. Nếu không nhờ đôi cọp mun thì mất mạng rồi. Sao vua Bà biết?
Bình-Dương mỉm cười:
- Đêm tiểu bối với phò mã Thiệu-Thái đánh úp Ninh-châu (Quý-châu), bắt sống Vĩnh Cơ, rồi tiếp viện cho đại sư bá. Giữa đường gặp Nam-Sơn lão nhân, thì biết lão định cứu Đức Quang mà không thành.
Thuần-Anh kinh hãi nghĩ thầm:
- Rõ ràng trong kế hoạch thì mình đánh Hoành-châu, sau đó đánh Ninh-châu, mà nay lại chính vua Bà đánh. Từ trước mình cứ cho rằng điều binh giỏi nhất là tiên cô, mưu kế là Thiệu-Cực, võ công là Thiệu-Thái, đạo đức là Bình-Dương. Không ngờ bây giờ vua bà Bình-Dương cũng điều binh nữa.
Vua Bà như đoán được ý nghĩ của Thuần-Anh:
- Sư bá đừng ngạc nhiên. Khi công chúa Bảo-Hòa với tiểu bối thiết kế đã ước định như vậy. Tính công chúa Bảo-Hòa cực kỳ cẩn thận, có đâu để Thuần-Khanh đánh Củng-châu, trong khi phía sau lưng bị Ninh-châu đe đọa?
Phò-mã Thiệu-Thái truyền lệnh:
- Nùng phu nhân thế mà giỏi. Phu nhân khẩn đem quan tiếp ứng cho Thuần-Khanh, việc tổ chức cai trị Hoành-châu, Ninh-châu chúng tôi xin lo liệu. Dường như tế tác của ta trong thành Củng-châu bị tê liệt thì phải.
Đến đó có chim ưng đem thư lại. Phò mã mở ra coi thì ra tin của tế tác tại Biện-kinh.
"... Tin đại quân Bắc tiến đã về đến triều. Triều đình cho rằng đây là cuộc đụng chạm giữa các biên thần phía Nam. Tin Khâm-châu, Liêm-châu, Hoành-châu, Liễu-châu thất thủ làm cho nhà vua cực kỳ bối rồi. Triều đình khẩn triệu Tam-anh, Ngũ-hổ sai xuống trấn Kinh-châu. Một mặt mời Kinh-Nam vương về triều để giải quyết vụ xung đột Nam thùy".
Vừa lúc đó tế tác báo:
- Đạo quân đánh Củng-châu trúng phục binh, hiện đang bị vây trên ngọn đồi Nam-sơn.
Thiệu-Thái kinh hãi nói:
- Nùng phu nhân mau đem quân tiếp cứu Thuần-Khanh. Chúng tôi sẽ điều quân tới sau.
Thuần-Anh vội đem đội thú binh cùng kị mã đi trước, để bộ binh lại cho phó tướng.
Đường Ninh-châu đi Củng-châu không xa. Chỉ sau hai giờ sức ngựa thì đạo binh Thuần-Anh đã thấy xa xa khói bốc lên từ một ngọn đồi. Trên đồi, quân Trường-sinh núp vào các tảng đá, cùng với thú rừng dàn thành phòng tuyến. Dưới đồi, quân kị, quân bộ reo hò, nhưng không tiến lên được. Thuần-Anh than:
- Con bé Thuần-Khanh thực giỏi, với chỉ ba nghìn quân, mà chống với ba nghìn bộ, hai nghìn kị của Tống được gần một ngày rồi mà phòng tuyến vẫn chưa loạn.
Bà cầm kiếm hô lên một tiếng, đạo quân của bà chia làm hai, đánh vào hai hông đồi. Quân thú đi trước, quân kị, bộ theo sau. Quân Tống thấy bên địch có viện binh, lập tức lùi lại bầy thành trận thế.
Thuần-Khanh đứng trên cao, cầm cờ đỏ phất, đội binh thú, với đám xe bắn đá đổ đồi, sức mạnh như thác cuốn. Quân Tống bị ba cánh quân đánh một lúc, lập tức đổi tiền đội ra hậu đội, rồi rút lui.
Thuần-Anh cầm cờ chỉ một cái, quân Trường-sinh đẩy xe bắn đá đi trước, có đội cọp hộ tống, đuổi theo. Đuổi được một quãng, thì Thuần-Khanh nói:
- Mẹ mau cho quân ngừng lại, vì e có phục binh.
Miệng nói, tay nàng chỉ lên trời: Xa xa, trong thành Củng-châu, mấy cặp chim ưng từ trên cao đâm bổ xuống, rồi lại bay lên. Tín hiệu đó, có nghĩa rằng trong thành có nhiều quân.
Thuần-Anh hỏi:
- Tình hình ra sao?
- Tế tác của mình bị lộ, cho nên đêm trước, Toàn Huy cho bắt hết, rồi y tương kế tu kế: cho phục quân trong thành. Lúc con đem quân tới, thấy trong thành có lửa cháy, có tiếng reo, rồi cửa thành mở rộng. Con cho quân đánh vào, thì bị trúng phục binh. Con vội vàng dùng thú cản đường, rồi rút về đồi Nam-sơn cố thủ. Toàn-Huy đem quân đuổi theo. Quân của y đông gấp đôi quân mình, nên con cố thủ rồi sai chim ưng báo về cho tiên-cô với sư phụ. Toàn Huy tuy là quan văn, nhưng y quả có tài dùng binh. Y đánh lên núi mấy lần, nhiều lúc con tưởng đã nguy rồi.
Hai mẹ con kiểm điểm lại binh mã, rồi tiến về phía thành Củng. Vừa đi được một quãng, thì gặp đội quân Tống hàng ngũ rối loạn đang chạy ngược lại. Thuần-Khanh phất cờ cho quân dàn ra chuẩn bị nghinh chiến. Không ngờ đám quân Tống kinh hoảng bỏ chạy vào rừng. Thuần-Khanh cho quân đuổi theo, bao vây bắt đám tàn binh.
Thuần-Anh bảo con:
- Như vậy quân Toàn Huy vỡ rồi. Vậy con tiếp tục bắt tàn binh, để mẹ đánh Củng-châu.
Bà đem đội kị binh phi khẩn cấp đến thành Củng. Tới nơi, cửa thành Củng đóng kín, trên cách địch lâu, không một bóng người. Thuần-Anh định ra lệnh cho xe bắn đá đánh thành, thì một chiếc pháo thăng thiên vút lên bầu trời rồi nổ đánh đoàng một cái. Lập tức trên thành gươm giáo sáng ngời, quân đồng xuất hiện. Một tướng cung tay hướng xuống thành:
- Nùng bá-mẫu, sao tới trễ quá vậy. Cháu tuân lệnh tiên cô chiếm thành này lâu rồi.
Thuần-Anh nhìn lại thì ra Vi Chấn, cạnh y có lá cờ bay phất phới với hàng chữ Hữu thiên ngưu vệ thượng tướng quân, Na-dương hầu .
Cổng thành Củng-châu mở rộng, Thuần-Anh cho quân tiến vào. Vi Chấn cung kính ra đón bà trước cửa dinh tổng trấn. Vào trong dinh, bà kinh ngạc vô cùng, khi thấy Toàn Huy đang ngồi làm việc cùng một số thư lại để ban bố lệnh miễn thuế cho dân. Toàn Huy đứng dậy thi lễ với Thuần-Anh:
- Tiểu sinh xin tham kiến phu nhân.
Thuần-Anh ngớ cả người ra.