Anh Linh Thần Võ Tộc Việt
Chương 42 : Anh linh thần võ tộc việt
Ngày đăng: 12:12 18/04/20
Thiên-đài đại đại phân Nam-Bắc,
Lĩnh địa niên niên dữ Việt-thường.
(câu đối tại Thiên-đài)
Nghĩa là:
Núi Thiên-đài thời thời phân ra Nam, Bắc.
Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với giòng giống Việt-thường.
Hôm ấy là ngày chín tháng ba, chỉ còn một ngày nữa là ngày giỗ Quốc-tổ của tộc Việt. Từ mấy nghìn năm trước, cứ đến mồng mười tháng ba, là võ lâm, nhân sĩ, quan lại các nơi đổ đồn về núi Thiên-đài để hành hương, viếng thăm di tích thời lập quốc. Bởi Thiên-đài là nơi vua Đế-Minh tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc tức vua Nghi.
Phong cho con thứ làm vua Lĩnh-Nam tức vua Kinh-Dương. Ngài chỉ trời đất thề rằng:
"Từ nay đến muôn đời sau, Bắc không xâm Nam; Nam chẳng lấn Bắc. Nếu ai trái lời thì tuyệt tử tuyệt tôn".
Từ đấy Thiên-đài trở thành di tích lập quốc của tộc Việt.
Hôm ấy tuy mới mồng chín, nhưng năm nay là năm đầu tiên kể từ thời vua Trưng bị Hán xâm; núi Thiên-đài được người Việt chiếm lại, và người Việt nô nức kéo nhau đi dự lễ.
Một cỗ xe lớn, do bốn ngựa kéo, đang ì ạch theo đường Nam-Bắc tiến đến chân núi Ngũ-lĩnh. Trên xe, thầy đồ Bắc ngạn cùng một người đàn bà xấu xí, ruổi ngựa theo hướng Bắc. Chỉ còn cách chân núi mười dặm, thì gặp một đạo quân Đại-Việt đóng dài bên đường. Viên đội trưởng bước ra vẫy tay cho xe ngừng lại, rồi anh ta hỏi:
- Phải chăng quý khách đi dự giỗ tổ ?
- Đúng thế.
Anh đội trưởng chỉ lên ngọn núi :
- Xin ông bà cứ theo đường có cờ kéo mà đi.
Thấy binh lính lễ phép thì thực lễ phép, nhưng họ nói tiếng Việt lơ lớ, nho sinh đánh xe hỏi:
- Anh em thuộc đội quân nào? Dưới quyền ai?
Người đội trưởng cung tay:
- Chúng cháu thuộc đạo quân U-bon do trấn Bắc thượng tướng quân U-bon quận vương, phò mã Lê Văn cùng trưởng công chúa An-nan Tam-gia La-sun tổng chỉ huy.
Người phụ nữ ngồi cạnh móc trong bọc ra một đĩnh vàng, trao cho viên đội trưởng:
Dù Thường-Kiệt đã thành đại tướng, Thanh-Mai vẫn yêu thương cháu như hồi xưa. Vương phi cầm chiếc roi vung ra, cuốn lấy y, rồi rung tay một cái, Thường-Kiệt bay lên ngồi bên cạnh bà:
- Để cô dạy khôn cho. Trong tất cả chúng ta đây, ai cũng là Ưng-sơn được cả, chúng ta giả trang giống nhau để lừa thiên hạ. Thầy đồ hôm ở Bắc-ngạn là sư thúc Thông-Mai. Thầy đồ trêu cháu với Thuần-Khanh ở Bắc-biên là Tôn Đản. Thầy đồ dán hịch hôm cháu bị tĩnh thân là ta. Thầy đồ cứu bà Thuần-Anh là bố ta. Thầy đồ giết chết Tây-Sơn đạo sư trong trận Khúc-giang là thái sư phụ Đặng- Đại-Khê. Thầy đồ phục kích bắt mấy trưởng lão bang Hoàng-Đế tại Như-hồng là ta. Còn thầy đồ nướng chả bọn chúng thì chính là sư thúc Thông-Mai.
Bảo-Hòa hỏi Tự-Mai:
- Tình hình quân Tống mặt Bắc ra sao?
- Khi nghe tin Nùng Trí-Cao lên ngôi, tự xưng là Nhân-Huệ hoàng đế, cải tên nước là Đại-Nam. Triều Tống cử em trấn từ Bắc Ngũ-lĩnh tới Trường-sa. Em án binh bất động, rồi dâng biểu về triều rằng em không thể đem quân Tống đánh quân Việt, lại càng không thể đem quân Việt đánh quân Tống. Em xin nhà vua cho treo ấn từ quan, về điền viên. Biểu gửi đi hơn mười ngày, thì một hôm em mời Lê Văn, Nong-Nụt tới hồ Động-đình chơi. Lúc thuyền về đến Trường-sa thì Quách Qùy, Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt, Khúc Chẩn đem quân làm phản, định vây bắt em. Nhưng khi em cùng công chúa đối diện với ba quân, thì quân tướng sợ uy, không dám ra tay. Em xung vào trận bắt Quách Qùy; Văn bắt Triệu Tiết; công chúa bắt Tu Kỷ; Nong-Nụt bắt Yên Đạt. Khúc Chẩn trốn thoát. Em tra khảo, chúng xì ra đạo mật chỉ của nhà vua dặn rằng khi thấy em có hành vi phản bội Tống, thì lập tức đem binh bắt giết ngay. Vì vậy, chúng thấy em với Lê Văn chơi hồ Động-đình, thì ra tay. Em bỏ tất cả chúng xuống thuyền, rồi đe Quách Quỳ: từ nay trở đi, nếu để cho em thấy mặt thì em đập nát thây. Văn đệ đe Triệu Tiết: nếu để Văn đệ thấy mặt, thì Văn đệ sẽ thiến. Sau đó em cho thuyền về Bắc.
Nắng tháng ba chói chang trên đỉnh Thiên-đài. Khai-Quốc vương chỉ con sông Tương uốn khúc tới hồ Động-đình nói với vương phi:
- Em nhìn kìa, kia là Tương-Nam, Tương-Trung, Tương-Bắc, kia là cánh đồng Tương. Chỗ chúng ta ngồi ngày hôm nay, là nơi mà Quốc-tổ, Quốc-mẫu đã ngồi.
Vương quay lại, thì Bảo-Hòa, Thông-Mai đang khoan thai dạo bước dưới sườn núi; còn bọn Tự-Mai, thì đang ở trong đền thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu.
Một đám mấy trắng trôi qua, đâu đó tiếng tiêu dìu dặt vọng về, hòa với tiếng thông reo, như tiếng Quốc-tổ, Quốc-mẫu thì thầm dặn con cháu.
***
-Khởi thảo ngày 10 tháng 3 năm Mậu-Thân (1968)
-Hoàn thành ngày tết Nguyên-Đán năm Quý-Mão (1975)
-Sửa bản thảo lần thứ nhất sau chuyến Hoa du năm 1978
-Sửa bản thảo lần thứ nhì sau chuyến Hoa du năm 1982
-Sửa bản thảo lần thứ ba sau chuyến Hoa du năm 1986
-Sửa bản thảo lần thứ tư trong khi bị ma quỷ ám tháng 6-89 đến tháng tháng 11 năm 1990.
-Sửa bản thảo lần thứ năm từ 10 tháng 12 năm 1990 đến 13 tháng 12 năm 1992, sau khi nghe giáo sư Lương Kim-Định, văn hữu Hồ Trường-An và bào đệ Trần Huy-Quyền góp ý kiến.
-Kiểm lỗi chính tả xong tại Pontault-Combault, ngày 8 tháng năm năm 1993, kỷ niệm lễ chiến thắng của nước Pháp.
-Viện Pháp-á Paris xuất bản lần thứ nhất 1993. Xuân-thu, California Hoa-kỳ ấn thành.
-Tái bản lần thứ hai 2001, Thư-viện Việt-Nam (), California Hoa-kỳ ấn hành.