Anh Linh Thần Võ Tộc Việt

Chương 7 : Tử vì đẩu số

Ngày đăng: 12:12 18/04/20


Nhà vua quay ra ngoài hỏi một thái giám:



- Hồi chiều ta tuyên chỉ cho người đi thỉnh Tây-Sơn đạo sư. Đạo-sư đã tới chưa?



- Tâu bệ hạ đạo sư tới lâu rồi, nhưng hạ thần thấy bệ hạ bận chính sự nên không dám vào tâu.



Nghe đến Tây-Sơn đạo nhân, Tự-Mai giật mình, tự hỏi:



- Không biết có phải Tây-Sơn lão nhân mà mình đã gặp trên Tản-lĩnh không? Mình cứ chờ xem, lát nữa sẽ biết.



Không phải chờ lâu, Tây-Sơn lão nhân từ ngoài bước vào. Lão chắp tay xá ba xá, chứ không lạy. Nhà vua đối với lão tỏ ra trọng vọng vô cùng. Ông đứng dậy đón lão, rồi mời ngồi xuống chiếc ghế cạnh án thư:



- Nghe đạo sư mới sang Đại-Việt chắc biết nhiều về xứ này, vì vậy trẫm thỉnh đạo sư đến đàm đạo.



Trên mặt Tây-Sơn lão nhân hiện ra vẻ bẽn lẽn:



- Cơ trời thực ảo diệu, bộ máy tạo hoá khéo xếp đặt. Năm nay bốn anh em hạ thần đều gặp hạn xấu. Bắc-Sơn lão nhân đại hạn ngộ Kình, tiểu hạn ngộ Kiếp, Phục. Nam-Sơn lão nhân đại, tiểu trùng phùng tại Hợi ngộ Liêm, Tham.



Nhà vua tính đốt ngón tay:



- Như vậy Bắc-Sơn đạo sư thế nào cũng bị người ta đánh lừa, rồi đến nỗi bị đau đớn thân xác. Còn Nam-Sơn lão nhân không bị thương cũng bị quan sự. À, nhưng Nam-Sơn lão nhân tuổi Bính có Hóa-kị đi với Liêm-trinh thì giải được cái độc Liêm, Tham, chắc chỉ bị thương thôi.



- Bệ hạ thực minh kiến. Còn đại hạn thần ngộ Không, Kình. Tiểu hạn bị Hình chiếu. Thành ra bị thương suýt mất mạng.



Nhà vua đưa mắt nhìn khắp người Tây-Sơn lão nhân:



- Sự thực ra sao? Không lẽ các vị bị người Việt đánh đến bị thương?



- Tâu bệ hạ bọn thần bị lừa, lại được võ lâm Đại-Việt cứu trợ. Họ tiếp đãi anh em thần rất chí tình, thế mới xấu hổ chứ.



Rồi lão thuật lại chi tiết bị Hồng-thiết giáo Tây-vực bắt sứ giả, sửa chiếu chỉ đánh lừa toàn phái Hoa-sơn sang Bắc-biên ra sao. Khi về còn được vua Bà đãi yến, cho uống rượu quý.



Nhà vua nghe xong bật cười:



- Khi vận hạn đến, thì dù minh mẫn như các vị cũng không tránh được. Người Việt cũng rộng lượng đấy chứ. Họ không thù oán, mà còn trợ giúp mình. Thành ra mình mắc nợ họ một món nhân tình lớn. Hôm nay trẫm muốn đạo sư giảng chi tiết về nguồn gốc phái Hoa-sơn cùng sự hình thành khoa Tử-vi cho trẫm nghe lại một lần.



Tây-Sơn lão nhân chắp hai tay vào nhau:



- Phái Hoa-Sơn được thành lập từ năm Thiên-thụ nguyên niên thời Vũ-hậu đời Đường (Canh-Dần, 690), do tổ Trương Hư đạo sư sáng lập. Nguyên tổ là người đọc sách, rồi làm tướng võ. Thấy Vũ hậu chuyên quyền, người có ý định khởi binh. Nhưng vua Duệ-Tông không có chí khí. Vì vậy người cùng một số tướng sĩ bỏ di tu. Sau nhân du ngoạn qua Hoa-sơn, xem cảnh trí hùng vĩ, người mới xây am, dựng đền thờ Tam-thánh, thu đệ tử, lập ra phái Hoa-Sơn.



Nghe Tây-Sơn lão nhân nói, Tự-Mai tỉnh ngộ:



- Hèn chi phái Hoa-Sơn do đạo sĩ cầm đầu, mà lại chủ trương nhập thế. Thì ra nguyên ủy từ ông tổ làm tướng.



- Lúc đầu bản phái chỉ dạy đệ tử về võ công. Trải mấy trăm năm, đến tổ Hy-Di, bản phái thay đổi, dậy đệ tử cả võ công lẫn thiên văn, lịch số. Nổi danh nhất là khoa Tử-vi.



Nhà vua mỉm cười:



- Nhờ khoa Tử-vi, mà bản triều được thành lập. Hồi còn tại thế, tiên đế hằng nhắc đến công ơn của các đạo sư phái Hoa-Sơn, người không tiếc lời xưng tụng. Xin đạo sư cho trẫm nghe về nguồn gốc tổ Hy-Di.



- Vâng, thần xin tâu.



Tây-Sơn lão nhân ngồi ngay ngắn lại:



- Tổ Hy-Di họ Trần, húy Đoàn, sinh trưởng ở phía Nam núi Đại-dữu. Thân phụ của tổ là một nhà Thiên-văn, Lịch-số đương thời. Người sinh vào giờ Tỵ, ngày mười sáu tháng giêng, niên hiệu Cảnh-phúc nguyên niên đời Đường Chiêu-Tông (Nhâm-Tý, 894). Thân mẫu lâm bồn sớm một tháng, nên thời thơ ấu tổ bị bệnh hoạn liên miên. Tuy nhiên tổ rất thông minh, học một biết mười. Trong khi đó gặp phải người anh lêu lổng ham chơi, thường hay đánh đập tiên sinh cực tàn nhẫn.



...Vào năm lên tám, tổ bắt đầu học thiên-văn. Bấy giờ tổ đứng xem phụ-thân quan sát Thiên-hà, để tính nhật thực. Phụ thân phải nhân chia dài hàng mười con số, mà tổ cứ hỏi vặt. Người tìm cách sao cho tổ đừng quấy rầy. Người trao cho tổ máy Trắc-thời-đồ, rồi chỉ lên Thiên-hà:



- Con hãy xem, kia là chòm sao Tử-vi, kia là chòm sao Thiên-phủ. Con hãy đếm xem hai chòm này có bao nhiêu sao?



Thế là tổ ngồi xử dụng Trắc-thời-đồ đếm sao. Thân phụ tổ tưởng rằng ít ra phải mất một giờ tổ mới đếm xong. Không ngờ chỉ mấy khắc sau, tổ chạy vào nói:



- Con đếm hết rồi. Đi sau Tử-vi gồm năm sao. Như vậy chòm Tử-vi có sáu sao. Đi sau Thiên-phủ có bẩy sao, như vậy chòm Thiên-phủ có tám sao.



Từ đấy tổ được phụ thân giảng dạy rất kỹ về khoa Thiên-văn, Lịch số. Năm hai mươi tuổi tổ ngộ đạo làm đệ tử phái Hoa-sơn, bắt đầu học võ công.



Khi thành danh, tổ ngao du khắp thiên hạ, rồi khải ngộ tìm ra khoa Tử-vi.



Nhà vua ngắt lời:



- Trẫm đọc bộ Tử-vi chính nghĩa phần tựa tổ viết rằng: Nhân người học thuyết Âm-dương, Ngũ-hành, Dịch-lý, Hình-tượng, Lịch-số, rồi hợp lại thành khoa Tử-vi.



Nhà vua rót chén sâm thang trao cho Tây-Sơn lão nhân:



- Mời đạo-sư uống cho tinh thần thanh thản.



- Đa tạ bệ hạ.



Tự-Mai không dám thở mạnh, vì nó biết nội công Tây-Sơn lão nhân rất cao thâm, chỉ hấp khí hay gây tiếng động nhỏ lập tức lão khám phá ra liền. Trước khi khởi hành, Khai-Quốc vương dặn nó:



- Đời vua Hùng, quan Lịch-lệnh nhìn Thiên-hà tìm ra phép làm lịch. Sau khi dùng trong hơn ba trăm năm, mỗi năm đều có sửa đổi. Niên hiệu Hồng-bàng thứ năm trăm hai mươi bẩy (Mậu-Thân, 2353 trước Tây-lịch), bấy giờ bên Trung-quốc là niên hiệu thứ năm đời vua Nghiêu; vua Hùng thấy Trung-quốc chưa biết làm lịch, mới sai chép phép làm lịch của người Việt lên lưng một con rùa lớn đem cống. Vua Nghiêu sai quan Thái-sử-lệnh chép lấy, rồi làm ra lịch. Bởi vậy gọi là Qui-lịch. Sau này người Hán nghiên cứu rất rộng về Lich-số. Trong khi đó bên mình chỉ có phái Sài-sơn nghiên cứu khoa này. Gần đây đạo sĩ Trần Đoàn tìm ra khoa Tử-vi, truyền cho Tống Thái-tổ. Học Tử-vi để biết kẻ trung người nịnh, vận số tốt xấu mà mưu đại sự. Nhưng họ dấu diếm, không truyền ra dân gian. Hiện tất cả bí mật đó, họ chép thành sách cất ở Tập-hiền viện. Ta phải tìm cách lấy đem về.



Nhưng từ lúc đột nhập vào đây, giữa rừng sách hàng mấy chục vạn quyển, nó không biết những sách đó để ở chỗ nào. Hơn nữa trong phòng chứa sách không có đèn, làm sao mà tìm. Bây giờ nghe Tây-Sơn lão nhân đàm luận với nhà vua về khoa Tử-vi, nó chỉ hiểu lờ mờ, nhưng đã có chút hy vọng.



Tây-Sơn lão nhân tiếp:



- Sau đó tổ được truyền ngôi chưởng môn.



" Một hôm đang cùng chư đệ tử ngắm Thiên-hà, coi vận số đất nước. Bỗng tổ chỉ lên trời kêu lớn:



- Kìa, quái lạ không kìa.



Đệ tử cùng nhìn theo tay tổ chỉ, thấy sao Tử-vi, Thiên-phủ đi vào địa phận sao Phá-quân và Hóa-kị, mà ánh sáng chiếu xuống Hoa-sơn.



Tổ nói:



- Tử-vi, Thiên-phủ thuộc đế tượng, tức là vua. Tử-vi bao giờ cũng đi trước. Thiên-phủ bao giờ cũng theo sau. Hai ngôi sao này chiếu xuống Hoa-sơn ứng vào anh em một gia đình nào đó, đang gặp thủa tiềm-long. Sau này sẽ làm lên sự nghiệp vẻ vang, vị tới đế-vương. Phá-quân là hao tinh, chủ nghèo đói. Hóa-kị chủ bần hàn, như miệng lưỡi kêu xin. Phá ngộ Kị, ắt nghèo quá phải đi ăn xin. Tử-Phủ ngộ Hao, Kị ứng vào đềm hai vị thiên tử chưa gặp thời, đang lưu lạc hành-khất. Tất cả chiếu xuống Hoa-sơn, chắc ngày mai hai vị thiên tử qua đây ăn mày. Vậy ngày mai, các người theo ta xuống núi cứu giúp người anh hùng đang khốn cùng.



Đệ tử thưa:



- Đệ tử nghĩ, nhân lúc thiên tử chưa gặp thời, ta nên cho người vay nợ. Sau này người thành đại nghiệp, ta đòi, để cứu giúp dân nghèo.



Tổ đồng ý. Hôm sau tổ dẫn chư đệ tử xuống núi, có đoàn người chạy loạn đi qua. Tổ để ý thấy một thiếu phụ gánh hai chiếc thúng, trong mỗi thúng để một đứa trẻ khôi ngô dung quang khác thường. Tổ biết hai trẻ ấy ứng vào sao Tử, Phủ. Tổ hỏi thiếu phụ:



- Này bà ơi. Bà gánh hai vị thiên tử đi đâu vậy?



Thiếu phụ đặt gánh xuống thưa:



- Con tôi đó, vua chúa gì đâu. Chúng đang đói. Từ sáng đến giờ bụng trống không. Tiên sinh bố thí cho chút đồ ăn được không?



Tổ truyền đem cơm chay khoản đãi thiếu phụ cùng hai trẻ. Tổ lại hỏi giờ, ngày, tháng cùng năm sinh của hai trẻ. Tổ bấm số Tử-vi rồi nói với đệ tử:
- Đạo sư tính lại một lần nữa cho thực kỹ.



- Đây! Bệ hạ xem: Năm tới là năm Mậu-Thìn, đương số năm mươi sáu tuổi. Đại hạn đến cung Thiên-di gặp Tham-lang, Lộc-tồn, Thiên-không (6) lưu niên Thiên-mã, tức cách rất độc : Lộc đảo, Mã đảo, Thiên-không. Tiểu hạn tới cung Tuất ngộ Thái-tuế, Thiên-hình thêm lưu Thái-tuế ở Thìn chiếu sang thành Lộc đảo, Mã đảo, ngộ Thái-tuế chi hợp Kiếp, Không. Chết trăm phần trăm.



Nhà vua gật đầu:



- Như vậy trẫm có thể quyết định chính sách Nam-thùy được rồi.



- Tâu bệ hạ, số của ai thế?



- Của Lý Công-Uẩn.



Tự-Mai kinh hoàng, nó nghĩ thầm:



- Mình phải nói điều này cho anh cả biết, hầu chuẩn bị mới được. Ông vua này biết Thuận-Thiên hoàng đế sắp băng, e sẽ mang quân sang đánh không chừng. Nếu ngài băng, thì anh cả phải hiện diện để giúp Khai-Thiên vương lên làm vua. Bằng không thì rắc rối to.



Nhà vua suy nghĩ một lúc, rồi nói:



- Bây giờ phiền đạo sư tính lại cho trẫm một lá số nữa. Nam mệnh sinh ngày mười hai, tháng ba, giờ Dần, tuổi Tân-Sửu.



Tây-Sơn lão nhân tính đốt ngón tay một lúc rồi nói:



- Dây là số của một anh hùng hiếm có trên thế gian. Nếu bệ hạ được người này phò tá, thì sự nghiệp e không thua vua Vũ nhà Hán, vua Thái-tông nhà Đường.



- Trẫm cũng thấy như vậy. Mệnh lập tại Dần các sao lớn tụ cả về đây. Cự-môn, Thái-dương thủ mệnh. Tử-vi kinh nói:



Quyền hội Cự, Vũ anh hùng.



- Đương số tuổi Tân nên Hóa-lộc đi với Cự-môn. Hóa-quyền đi với Thái-dương. Hóa cho nên bốn sao Cự, Nhật, Quyền, Lộc tụ cả một chỗ, tạo thành con người có tư cách anh hùng, hành sự quang minh lỗi lạc. Đương số lại văn võ kiêm toàn, trông rộng, nhìn xa, nhã lượng, cao trí. Tam hợp hội đủ Tả, Hữu, Xương, Khúc, thì sự nghiệp thực không nhỏ.



Nhà vua gật đầu:



- Tỷ như đương số thuộc loại đối đầu với ta. Trẫm phải làm gì để thắng y?



Tây-Sơn lão nhân suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu thở dài:



- Không có cách nào thắng y được cả. Tại sao bệ hạ phải thắng y, mà không thể kết thân với y?



- Trẫm cũng muốn kết thân với y, mà e thái hậu không muốn mới khổ chứ. Vận số của y ra sao?



- Năm nay đại hạn ở Sửu, Thiên-phủ ngộ Hình. Tiểu hạn ở Thân ngộ Văn-xương, gặp những điều bất như ý, nhưng sự nghiệp lên cực cao. Sang năm, tiểu hạn Liêm, Phá ngộ Thiên-không, e công danh gặp nhiều gian truân. Tuy nhiên cuối cùng vẫn vô sự. Chỉ có cung thê lưu niên Bạch-hổ ngộ Nguyệt, Đồng, e vợ con nan toàn.



- Trẫm cũng thấy thế. Thái-âm cư Tý cực tốt, vợ đẹp, học giỏi, nhưng khi lưu hạn ngộ Tang, Hổ thực khó bảo trọng.



- Thần thấy trong triều chỉ Định-vương mới có thể so sánh với người này. Tâu bệ hạ y là ai vậy? Thần mong gặp y để kết thân.



Nhà vua mỉm cười:



- Y... Y đã kết huynh đệ với Định-vương. Y là Khai-Quốc vương bên Đại-Việt.



Tây-Sơn lão nhân bật lên:



- Ái chà.



- Chỉ còn mấy hôm nữa, trẫm sẽ tiếp y. Bây giờ biết y rồi, trẫm sẽ tùy nghi xếp đặt. Rất tiếc Lã Duy-Giản, Tào Lợi-Dụng theo thái hậu chống y. Trẫm khó mà kết thân với y được.



Qua cuộc hội kiến giữa nhà vua với Tây-Sơn lão nhân. Tự-Mai nói thầm:



- Tống có khoa Tử-vi như thế này, thực lợi hại. Mình phải ăn trộm sách của họ mới được.



Nhà vua đứng dậy tỏ ý tiễn khách:



- Bây giờ để đạo sư về nghỉ. Mai trẫm sẽ thỉnh Định-vương, cùng với đạo sư bàn về mấy là số của Đoàn Tố-Trinh bên Đại-lý, rồi quyết định chính sách Nam-thùy.



Tây-Sơn lão nhân đứng dậy cáo từ ra về.



Nhà vua vẫy thái giám:



- Người cất ba tập sách này đi cho trẫm, rồi đốt đèn trong thư phòng, đợi trẫm ăn xong, sẽ trở về đọc sách.



Nói rồi nhà vua đi ra. Tự-Mai đã được Bảo-Hòa cho biết: Hoàng đế ăn uống không có giờ giấc nhất định. Khi đói thì truyền thái-giám, cung nữ dọn lên ăn. Nó nghĩ thầm:



- Ông hoàng đế này chắc ăn ở nơi khác chứ không ăn ở đây.



Thái giám mang ba bộ sách cất vào chỗ cũ. Y thắp lên mười ngọn nến cực lớn, rồi đốt trầm. Thư phòng sáng rực. Xong công việc y sang phòng bên cạnh ngồi chầu chực.



Tự-Mai từ trên giá sách nhảy xuống như chiếc lá rụng. Nó lấy cả ba bộ Tử-vi chính nghĩa dấu vào bọc. Tò mò, nó nhìn sang bên cạnh, thấy toàn cách sách nói về Lịch-số.



Nó nói thầm:



- Lịch Trung-quốc gốc từ Quy-lịch của triều Hồng-bàng. Cho đến thời Lĩnh-Nam, Tư-đồ Phùng Vĩnh-Hoa soạn lịch cho vua Trưng đã chia năm làm hai mươi bốn tiết, cùng tính nhật thực, nguyệt thực cực chính xác. Mã Viện chiếm Lĩnh-Nam rồi y chở hết sách nghiên cứu về lịch dâng cho vua Quang-Vũ. Từ đấy lịch Trung-quốc đổi đến hai mươi bẩy lần. Ta cần lấy hết sách của họ mang về cho lịch quan nghiên cứu xem có gì hay hơn không?



Nó đếm : Từ Thái-sơ lịch pháp của Đặng Bình đời Hán. Càn-tượng lịch pháp của Lưu Hồng cho tới Minh-Thiên lịch pháp của Lưu Tông mới soạn xong, gồm hai mươi bẩy bộ. Nó xé khăn choàng cổ bện thành sợi dây, bó lại rồi vác lên vai, vượt qua cửa sổ ra ngoài.



Nó tiến thẳng đến chỗ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái núp. Hai người từ bóng tối nhảy ra hỏi:



- Việc xong chưa mà về sớm vậy?



- Xong một nửa. Anh Thiệu-Thái mang về đi. Để chị Mỹ-Linh ở lại canh chừng được rồi.



Trao bọc sách cho Thiệu-Thái rồi Tự-Mai theo đường cũ trở về, nó lại leo lên núp trên nóc kệ sách. Nó thấy nhà vua đã trở về, đang ngồi đọc sách. Nó nghĩ thầm:



- Ông vua này ăn uống gì mà mau như ma đói vậy à?



Ghi chú



(4) Thái-hồ thuộc Tô-châu, Thượng-hải, nằm sát bờ biển phía Đông của Trung-quốc, thuộc kinh-tuyến thứ bẩy, cùng giờ với Đại-Việt.



(5) Như ngày nay, người Việt sinh ở Paris giờ Tý, trong khi ở Hoa-sơn là giờ Mão. Khi lấy số nên lấy giờ Tý hay Mão? Theo Tử-vi kinh phải lấy giờ Tý.



(6) Xin lưu ý độc giả: Tây-Sơn lão nhân cùng vua Nhân-Tông tính Tử-vi theo chính phái: Không có sao Địa-không, mà chỉ có sao Thiên-không. Thiên-không an như sao Địa-không, chứ không đứng trước Thái-tuế một cung. Đại hạn thứ nhất ở cung Phụ-mẫu, hoặc Huynh-đệ, chứ không phải ở mệnh. Còn Hỏa, Linh cũng an khác:



* Tuổi Thân, Tý, Thìn: Hỏa ở Dần, Linh ở Tuất.



* Tuổi Dần, Ngọ, Tuất: Hỏa ở Sửu, Linh ở Mão.



* Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: Hỏa ở Mão, Linh ở Tuất.



* Tuổi Hợi, Mão, Mùi: Hỏa ở Dậu, Linh ở Tuất.