Anne Tóc Đỏ Dưới Mái Nhà Bạch Dương
Chương 19 :
Ngày đăng: 16:07 19/04/20
Đường Dawlish là một con đường khá quanh co, và buổi chiều hôm đó thật thích hợp cho những kẻ lang thang… ít nhất là Anne và Lewis nghĩ như vậy khi họ thong dong đi dọc theo con đường, thỉnh thoảng đứng lại để ngắm khoảnh eo biển ngọc lam đột nhiên hiện ra thấp thoáng sau hàng cây, thu vào tầm mắt một mảng thiên nhiên mỹ lệ đến ngỡ ngàng hay một ngôi nhà nhỏ đẹp như tranh vẽ nằm giữa một thung lũng um tùm. Có lẽ việc gõ cửa từng nhà một xin quyên góp cho câu lạc bộ kịch nói thì không được dễ chịu cho lắm, nhưng Anne và Lewis thay phiên nhau giữ nhiệm vụ mở lời… cậu thuyết phục các quý bà trong khi Anne lãnh phần đối phó với các quý ông.
“Nên bắt chuyện với lũ đàn ông nếu cô mặc chiếc váy và đội cái mũ đó,” Rebecca khuyên nhủ. “Tôi có khá nhiều kinh nghiệm đi xin quyên góp hồi còn trẻ và tất cả cho thấy mặc càng đẹp và bề ngoài càng tươm tất thì cô sẽ xin được nhiều tiền hơn… hoặc nhiều lời hứa đóng góp hơn… nếu cô chọn đối phó với lũ đàn ông. Nhưng nếu gặp phải đám đàn bà thì mặc vào thứ cũ nhất và xấu xí nhất ấy.”
“Con đường này thú vị quá phải không Lewis?” Anne mơ màng hỏi. “Không phải là loại đường thẳng bon, mà là con đường khúc khuỷu nhiều ngã rẽ với đủ nét quyến rũ và các kiểu bất ngờ lấp ló. Cô lúc nào cũng yêu những khúc quanh trên đường.”
“Con đường Dawlish này dẫn đến đâu nhỉ?” Lewis thực tế hỏi… dẫu ngay lúc đó, cậu đang nghĩ bụng rằng giọng nói của cô Shirley lúc nào cũng khiến cậu nghĩ đến mùa xuân.
“Lewis, cô có thể trả lời một cách cau có và có giáo điều rằng nó chẳng đi đâu cả… nó chỉ nằm ngay đây thôi. Nhưng cô sẽ không làm thế. Còn chuyện nó đi đâu hay nó dẫn đến đâu thì… ai mà quan tâm chứ? Có lẽ nó đi đến điểm tận cùng của thế giới rồi vòng trở lại. Hãy nhớ những gì Emerson từng nói… ‘Ôi, tôi biết làm gì với thời gian đây?’ Đó là phương châm của chúng ta cho ngày hôm nay. Cô cho rằng vũ trụ sẽ lộn tùng phèo hết cả nếu chúng ta để mặc nó dù chỉ một thoáng. Nhìn những bóng mây kia kìa… vẻ thanh bình của thung lũng xanh tươi… và ngôi nhà mỗi góc đều có một cây táo. Hãy tưởng tượng hình ảnh nó vào mùa xuân đi. Hôm nay là một trong những ngày mà con người cảm thấy mình đang sống và là chị em với mọi làn gió trên đời. Cô rất thích khi thấy có rất nhiều lùm dương xỉ thơm ở ven đường… dương xỉ thơm có phủ lớp màng nhện mỏng như tơ. Nó gợi nhớ lại những ngày mà cô tưởng… hoặc tin… cô cho rằng mình thực sự tin chắc… rằng tơ nhện là khăn trải bàn của các nàng tiên.”
Họ tìm thấy một dòng suối nằm bên lề đường, trong một thung lũng óng ả vàng, rồi ngồi xuống lớp rêu trông như được dệt từ những nhành dương xỉ bé tí, uống nước từ chiếc cốc Lewis quấn bằng vỏ cây bạch dương.
“Ta sẽ chẳng bao giờ biết được uống nước hạnh phúc đến nhường nào cho đến khi ta đang khát khô và tìm được nguồn nước,” cậu tâm sự. “Mùa hè năm đó em làm việc trên con đường sắt người ta đang xây dựng ở phía Tây, có lần em bị đi lạc giữa đồng cỏ trong một ngày nắng nóng và lang thang suốt nhiều giờ liền. Em những tưởng mình sẽ chết vì khát mất, và rồi em bắt gặp căn lán của một người khai hoang, ông ta có một con suối nhỏ hệt thế này giữa rặng liễu. Em uống ừng ực đến khiếp! Kể từ đó, em hiểu rõ hơn về Kinh Thánh và tình yêu đối với nguồn nước trong lành nhắc đến trong đó.”
“Chúng ta sắp có thêm nước nữa từ một nguồn khác đấy,” Anne kêu lên với vẻ khá lo âu. “Sắp mưa rào rồi và… Lewis ạ, cô yêu các trận mưa rào, nhưng cô đang đội chiếc mũ đẹp nhất và mặc bộ váy tốt nhì. Mà trong nửa dặm quanh đây chẳng có một ngôi nhà nào.”
“Có một lò rèn cũ bỏ hoang ở đằng kia kìa,” Lewis an ủi, “ nhưng chúng ta phải chạy thật nhanh mới kịp.”
Bọn họ chạy thật nhanh, và đứng trong nơi trú ẩn tận hưởng cơn mưa rào một cách thích thú chẳng khác gì những điều tươi đẹp khác vừa gặp trong buổi chiều dạo chơi vô tư lự đó. Bức màn tĩnh lặng bao trùm vạn vật. Những làn gió non tơ vừa mới thi nhau thì thầm xào xạc dọc theo đường Dawlish nay đã gập cánh và trở nên yên ắng bất động. Không một chiếc lá nào rung rinh, không một bóng râm nào lay động. Những chiếc lá phong ở khúc ngoặt lật ngược lên khiến hàng cây trong giống như đang tái nhợt vì sợ hãi. Một bóng râm khổng lồ mát lạnh tựa làn sóng xanh dường như đang nhấn chìm chúng… đám mây đã đuổi kịp đến nơi. Và rồi mưa rơi, với gió hết luồn rồi lại giật. Những hạt mưa rào lộp độp rơi trên lá, nhảy múa dọc theo con đường đất đỏ mờ sương và vui vẻ gõ lanh canh lên mái lò rèn cũ.
“Nếu cơn mưa kéo dài mãi…” Lewis lo lắng.
Nhưng không. Cơn mưa chấm dứt bất ngờ chẳng kém lúc nó ập tới, và mặt trời lại chiếu sáng phía trên hàng cây ướt sũng lấp lánh. Những mảng trời xanh chói lóa lấp ló sau những tảng mây trắng rách bươm. Xa xa họ có thể nhìn thấy một ngọn đồi vẫn còn nhòe đi trong mưa, nhưng bên dưới họ, thung lũng uốn cong sóng sánh lớp sương mởn màu đào chín. Khu vườn xung quanh kiêu hãnh khoác lớp áo lóng lánh hệt như dạo xuân về, và một chú chim bắt đầu cất tiếng hót trên tán cây phong phía trên lò rèn, cứ như bị lừa rằng mùa xuân vừa đến vậy, cả thế giới thoắt trở nên hết sức tươi mát và ngọt ngào một cách thần kỳ.
“Hãy khám phá nó đi,” Anne đề nghị, khi họ tiếp tục chuyến đi, cô chỉ về phía một con đường mòn nhỏ chạy giữa hai hàng rào gỗ cũ kỹ lấp ló sau những cây hoa roi vàng.
“Ôi, sao lại không!” Bạn Trẻ hớn hở. “Chụp cả Carlo nữa nhé?”
“Đương nhiên là chụp cả Carlo rồi.”
Anne tạo dáng cho cả hai với bụi cây làm nền, chú bé đứng quàng tay quanh cổ người bạn to đùng rậm lông của mình, cả người và chó đều trông vui vẻ chẳng kém gì nhau, Lewis chụp ảnh cả hai bằng tấm phim cuối cùng còn lại.
“Nếu hình rửa ra đẹp, anh sẽ gửi nó cho em qua bưu điện,” cậu hứa. “Thế anh phải ghi địa chỉ thế nào?”
“Teddy Armstrong, con ông James Armstrong, đường Glencove,” Bạn Trẻ đáp. “Ôi, nhận được thứ gì đó gửi đến cho chính em qua bưu điện thì chắc là thích lắm đấy. Bảo đảm với anh là em sẽ cảm thấy oách dễ sợ luôn. Em sẽ không hé răng gì với ba về chuyện này, để nó trở thành một bất ngờ tuyệt vời dành cho ba.”
“Ừ, cứ chờ bưu kiện của em tới nơi trong vòng hai ba tuần nữa,” Lewis dặn dò, rồi họ tạm biệt cậu bé con. Nhưng đột nhiên Anne cúi xuống hôn lên khuôn mặt nhỏ rám nắng của cậu bé. Có gì đó ở cậu níu lại trái tim cô. Cậu bé thật dễ thương… thật hào hiệp… thật mồ côi!
Họ ngoái lại nhìn cậu bé trước khi đến khúc quanh, và thấy cậu đứng trên bờ kè cạnh chú chó, vẫy vẫy tay chào họ.
Đương nhiên là Rebecca Dew biết rõ mồn một về gia đình Armstrong.
“James Armstrong không sao phục hồi lại sau cái chết của vợ hồi năm năm trước,” chị kể. “Trước đó thì ông ta không tệ vậy đâu… khá là hòa nhã, dẫu có chút lánh đời. Đó là bản tính của ông ta. Anh ta chỉ quẩn quanh quanh cô vợ bé bỏng của mình… trẻ hơn anh ta đến hai mươi tuổi. Cái chết của cô vợ là một cú sốc khủng khiếp với anh ta, tôi nghe nói thế… thay đổi hoàn toàn tính cách của anh ta. Trở nên chua chát và gàn dở. Thậm chí không thèm thuê người trong nhà… tự mình quét tước nhà cửa và nuôi nấng đứa con. Anh ta sống độc thân nhiều năm liền trước khi kết hôn, nên anh ta cũng mát tay nội trợ lắm.”
“Nhưng đó không phải là cuộc sống tốt cho một đứa trẻ,” dì Chatty nói. “Cha gì mà chẳng hề đưa con đến nhà thờ hay bất kỳ nơi nào nhộn nhịp.”
“Anh ta tôn thờ cậu con trai, tôi nghe kể thế,” dì Kate bổ sung.
“Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác,” Rebecca Dew đột ngột trích dẫn Kinh Thánh.