Anne Tóc Đỏ Dưới Mái Nhà Bạch Dương
Chương 25 :
Ngày đăng: 16:07 19/04/20
“Tôi đến chết vì mệt mất thôi,” Ernestine Bugle thở dài, thả người rơi xuống chiếc ghế bên bàn ăn tối ở Bạch Dương Lộng Gió. “Có những khi tôi không dám ngồi xuống vì sợ sẽ chẳng bao giờ đứng dậy được nữa.”
Chiều hôm đó, Ernestine, người họ hàng dẫu cách xa ba đời với ngài thuyền trưởng MacComber quá cố nhưng, như dì Kate vẫn thường nhận xét, vẫn quá mức gần gũi, đã đi bộ từ Lowvale đến thăm Bạch Dương Lộng Gió. Bất chấp những kết nối huyết thống thiêng liêng, chẳng thể nói rằng trong hai bà góa lại có người nào hân hoan chào đón bà ấy. Ernestine không thuộc kiểu người hồ hởi mà nằm trong số những con người bất hạnh lúc nào cũng băn khoăn lo lắng không chỉ về các vấn đề của bản thân mà còn về vấn đề của hết thảy mọi người xung quanh, vì sẽ chẳng bao giờ để yên cho bất kỳ ai, thậm chí chính bản thân mình. Vẻ mặt của bà ấy, Rebecca Dew tuyên bố, luôn khiến ta cảm thấy cuộc đời này chẳng khác gì một bình nước mắt.
Chắc chắn Ernestine không phải người xinh đẹp, và hẳn sẽ chẳng ai thèm tán thành nếu có người cho rằng biết đâu ngày xưa bà ấy cũng có chút nhan sắc. Khuôn mặt bà nhỏ thó, hốc hác, quắt queo, đôi mắt xanh nhạt đã mờ, mấy cái nốt ruồi mọc ở những vị trí đến là vô duyên, lại thêm chất giọng rên rỉ than van. Bà mặc chiếc váy đen bạc phếch, trên cổ là cái khăn quàng xơ xác bằng lông chuột hương mà đến tận khi ngồi vào bàn rồi bà vẫn không chịu cởi ra vì sợ bị gió lùa.
Nếu thích thì lẽ ra Rebecca Dew đã ngồi cùng bàn ăn với họ, vì các bà góa không coi Ernestine là một “vị khách” có gì đặc biệt. Nhưng Rebecca lúc nào cũng tỏ rõ thái độ chị chẳng cách nào “thưởng thức bữa ăn” nếu phải ngồi cạnh bà già phá đám đó. Chị thích “ăn bữa ăn khiêm tốn của mình” ở trong bếp hơn, nhưng chuyện đó cũng không ngăn cản chị nhận xét trong lúc đợi để phục vụ bên bàn ăn.
“Có khi xương cô bắt đầu bị rạn rồi,” chị ấy nhận xét chẳng chút thông cảm.
“Ái chà, tôi hy vọng nguyên nhân chỉ có thế. Nhưng tôi chỉ e mình cũng giống như bà Oliver Gage tội nghiệp. Hè vừa rồi bà ta ăn nấm, nhưng chắc hẳn trong đó có lẫn cả một cây nấm độc, vì kể từ đó đến giờ bà ta chẳng bao giờ còn thấy bình thường được nữa.”
“Nhưng làm sao cô có thể ăn nấm sớm thế này được,” dì Chatty nói.
“Đúng là không, nhưng tôi e là mình đã ăn phải thứ gì đó. Đừng tìm cách động viên tôi, Charlotte ạ. Chị cũng chỉ muốn tốt cho tôi thôi, nhưng không có tác dụng đâu. Tôi cũng cố gắng lắm đấy chứ. Mà cô có chắc là trong bình kem kia không có con nhện nào không đấy, Kate? E là lúc cô rót kem vào tách cho tôi, tôi đã nhìn thấy một con đấy.”
“Chúng tôi chẳng bao giờ có con nhện nào trong bình kem cả,” Rebecca Dew nói bằng giọng nhuốm mùi nguy hiểm, đoạn đóng sầm cửa bếp lại.
“Có khi chỉ là gợn kem thôi,” bà Ernestine nói với vẻ nhu mì. “Mắt tôi không còn được như xưa nữa rồi. Chỉ sợ chẳng mấy chốc là tôi cũng mù thôi. Nói thế mới nhớ… chiều nay tôi vừa tạt qua thăm Martha MacKay thì thấy cô ta đang ngây ngấy sốt lại có triệu chứng phát ban. ‘Theo tôi thấy thì có khi cô bị sởi rồi,’ tôi bảo với cô ta thế. ‘Thế thì sau cô dễ bị lòa lắm đấy. Họ nhà cô vốn toàn những người mắt kém mà.’ Tôi nghĩ cô ta cần phải chuẩn bị tâm lý sẵn sàng. Cả mẹ cô ta cũng không khỏe. Bác sĩ bảo bà ấy chỉ mắc chứng khó tiêu thôi, nhưng tôi e rằng nó là một khối u. ‘Và nếu cô phải phẫu thuật gây mê thì chỉ sợ cô sẽ chẳng bao giờ tỉnh lại nổi,’ tôi nói với cô ta. ‘Đừng quên cô là một người nhà Hillis nhé, mà chẳng người nào mang họ Hillis lại không bị yếu tim. Cha cô chẳng chết vì đau tim còn gì.’ ”
“Tôi thấy Thyra Cooper đã sinh con rồi,” dì Chatty nói.
“À, phải, con bé tội nghiệp. May phước là chỉ có một thôi. Tôi đã e là cô ta sẽ đẻ đôi. Người nhà Cooper hay sinh đôi lắm.”
“Thyra và Ned quả là một cặp vợ chồng son thắm thiết,” dì Kate nói, như thể đã hạ quyết tâm cứu vớt một thứ gì đó từ đống đổ nát của trần gian.
Nhưng bà Ernestine đời nào chịu thừa nhận ở Gilead có bất kỳ niềm an ủi nào, và ở Lowvale lại càng không.
“Chà, cô ta thật tâm tạ ơn trời đất vì cuối cùng cũng lấy được anh ta. Đã có lúc tôi cứ tưởng anh ta sẽ chẳng quay trở về từ miền Tây nữa. Tôi đã cảnh báo cô ta. ‘Cô có thể tin chắc thể nào anh ta cũng sẽ làm cô thất vọng cho xem,’ tôi bảo cô ta. “Anh ta luôn khiến người khác thất vọng. Tất cả mọi người đều đinh ninh anh ta sẽ chết khi chưa đầy một tuổi, thế nhưng cô thấy đấy, anh ta vẫn còn sống đấy thôi.’ Khi anh ta mua ngôi nhà của Holly, tôi lại cảnh báo cô ta lần nữa. ‘Tôi e là nguồn nước ở đấy chứa đầy mầm bệnh phong hàn đấy,’ tôi nói với cô ta. ‘Năm năm trước, người làm thuê cho nhà Holly đã chết vì bệnh thương hàn.’ Nếu có bất kỳ chuyện gì xảy ra thì họ chẳng thể nào đổ lỗi cho tôi được. Joseph Holly bị đau sao đó ở lưng. Ông ta gọi đó là chứng đau lưng, nhưng tôi e rằng đó chỉ là khởi đầu cho bệnh viêm màng tủy sống thôi.”
“Ông bác Joseph Holly là một trong những người đàn ông tử tế nhất trần đời,” Rebecca Dew nói, mang vào một bình trà đã được châm đầy.
“Chà, ông ấy đúng là tử tế thật,” bà Ernestine u sầu nói. “Quá tử tế là đằng khác! Tôi chỉ e mấy người con trai của ông ấy sẽ đều trở thành kẻ chẳng ra gì thôi. Các cô quá quen với những chuyện như thế rồi mà. Cứ như thể nhất định phải làm sao cho cân bằng ấy. Không đâu, cảm ơn Kate, tôi không dùng thêm trà nữa đâu… chà, có lẽ là một cái bánh hạnh nhân vậy. Chúng không làm dạ dày ấm ách, nhưng tôi e là tôi ăn quá nhiều rồi. Tôi phải chuồn thôi, vì tôi e là chưa kịp về đến nhà thì trời đã tối mất rồi. Tôi không muốn bị ướt chân; tôi sợ chất amoniac lắm. Suốt cả mùa đông chẳng biết có thứ gì cứ chu du suốt từ cánh tay cho đến tận dưới chân tôi. Hết tối này đến tối khác, tôi nằm thức chong chong cùng nó. Chà, chẳng ai biết được tôi đã phải trải qua những gì đâu, nhưng tôi vốn không phải tạng người thích kêu ca phàn nàn. Tôi đã hạ quyết tâm phải dậy đi thăm các cô một lần nữa, vì biết đâu tôi chẳng còn ở đây được thêm mùa xuân nào nữa. Nhưng cả hai cô tàn tạ kinh khủng quá, có khi còn đi trước tôi cũng không biết chừng. Ái chà, tốt nhất là ra đi trong khi hai cô vẫn còn một người để lo khâm liệm cho người kia. Than ôi, gió đang nổi lên rồi kìa! Chỉ e gió mà mạnh lên là kho nhà chúng tôi tốc hết cả mái mất. Mùa xuân này gió nổi dữ lắm rồi. Tôi e là khí hậu đang thay đổi đấy. Cảm ơn, cô Shirley…” khi Anne giúp bà mặc áo khoác… “Chú ý chăm sóc bản thân nhé. Trông cô phờ phạc quá đi mất. Tôi e những người tóc đỏ chẳng bao giờ có thể chất thực sự mạnh khỏe cả.”
“Cháu nghĩ thể chất của cháu không vấn đề gì cả,” Anne mỉm cười, trao cho bà Ernestine một cái mũ, thật khó lòng miêu tả, gắn một cái lông đà điểu châu Phi dài lượt thượt đang nhỏ nước tong tong. “Tối nay cháu bị đau họng một chút, cô Bugle ạ, chỉ có thế thôi.”
“À!” Lại thêm một điềm báo đen tối khác trỗi dậy trong tâm trí bà Ernestine. “Cô nên cẩn thận nếu thấy đau họng. Bệnh bạch hầu và viêm amiđan có những triệu chứng y hệt nhau cho đến tận ngày thứ ba. Nhưng vẫn còn một niềm an ủi… nếu cô mà chết trẻ thì tránh thoát được vô khối rắc rối rồi.”