Anne Tóc Đỏ Làng Avonlea
Chương 1 : Người hàng xóm nóng nảy
Ngày đăng: 16:05 19/04/20
Một cô gái cao, thanh mảnh, mười sáu tuổi “rưỡi”, đôi mắt xám nghiêm nghị, mái tóc có màu được bạn bè gọi là “nâu đỏ” đang ngồi trên bậc thềm sa thạch đỏ rộng rãi của một nông trại trên đảo Hoàng Tử Edward vào một buổi chiều muộn tháng Tám, quyết tâm dịch được càng nhiều dòng thơ của Virgil[1] càng tốt.
Nhưng một buổi chiều tháng Tám, với sương mù xanh nhạt bảng lảng trên những triền đồi mùa gặt, làn gió thì thào tinh nghịch giữa những hàng dương, anh túc đỏ rực rỡ nhảy múa như những ngọn lửa nổi bật trên bãi đất tối trồng cây linh sam non ở góc vườn anh đào, buổi chiều ấy phù hợp với những giấc mơ lãng mạn hơn là thứ ngôn ngữ chết. Quyển Virgil sớm chuồi khỏi tay rơi xuống đất không biết tự lúc nào, và Anne chống cằm lên hai tay đan chéo, dõi mắt theo những cụm mây bồng bềnh mỹ lệ đang vun lại thành một ngọn núi khổng lồ màu trắng phía trên ngôi nhà của ông J. A. Harrison, tâm tưởng của cô đã bay xa đến một thế giới tuyệt vời, nơi một cô giáo đang làm những công việc vĩ đại, định hình vận mệnh của những chính khách tương lai, gieo trồng những ước vọng đáng quý và cao thượng trong tâm hồn và trái tim trẻ thơ.
Đương nhiên, nếu đi thẳng vào thực tế trần trụi... tuy phải thú thật là Anne ít khi nghĩ tới trừ khi bị bắt buộc... không có mấy mầm mống danh nhân xuất hiện ở ngôi trường Avonlea; nhưng nếu một giáo viên chịu dùng hết sức mình, ai biết ngày sau sẽ ra sao chứ. Anne có một vài lý tưởng màu hồng về những thành tựu mà một giáo viên có thể đạt tới, chỉ cần cô đi đúng hướng; và cô đang mơ tới một giấc mơ tuyệt vời: 40 năm sau, một nhân vật nổi tiếng... nổi tiếng về cái gì thì tạm thời tính sau, nhưng Anne nghĩ cũng khá hay nếu ông ta là hiệu trưởng trường đại học hay thủ tướng Canada... cúi xuống hôn bàn tay nhăn nheo của cô và khẳng định rằng cô là người đầu tiên nhen nhóm lên ngọn lửa hoài bão của ông, rằng mọi thành công trong cuộc đời ông đều nhờ vào những bài học cô đã từng truyền đạt nhiều năm về trước ở trường Avonlea. Viễn cảnh dễ thương đó đã bị một sự can thiệp hết sức không dễ thương làm vỡ tan tành.
Một ả bò cái giống Jersey chạy cun cút xuôi con đường mòn, và năm giây sau đó, ông Harrison bước vào... chỉ có điều “bước vào” là một động từ quá yếu ớt, không đủ sức miêu tả cách thức ông ta hùng hục xông vào sân.
Ông ta nhảy ngay qua rào mà không thèm chờ mở cổng, giận dữ đương đầu với cô nàng Anne đang hết sức ngạc nhiên đứng phắt dậy và hoang mang nhìn ông ta. Ông Harrison là người láng giềng mới bên phải bọn họ; cô chưa nói chuyện với ông ta lần nào dù có thấy qua một hai lần.
Hồi đầu tháng Tư, trước khi Anne rời trường Queen về nhà, ông Robert Bell, chủ nông trại giáp ranh với nhà Cuthbert về phía Đông đã bán đất và chuyển tới Charlottetown. Nông trại của ông được một ông J. A. Harrison nào đó mua lại, mọi người chỉ biết tên và một chi tiết khác là ông ta xuất thân từ New Brunswick. Chỉ mới một tháng ở Avonlea, ông ta đã kịp khoác lên mình danh hiệu một kẻ kỳ dị. “Gã lập dị”, bà Rachel Lynde tuyên bố. Bà Rachel là một quý bà trực tính, ai từng có hân hạnh gặp qua bà cũng nhớ rõ điều này. Ông Harrison rõ ràng là khác hẳn với những người khác... và đó là đặc trưng của một gã lập dị, như mọi người đều biết.
Đầu tiên, ông ta sống một thân một mình và tuyên bố thẳng thừng là không muốn bất cứ ả đàn bà ngu ngốc nào lảng vảng chung quanh chỗ ở của mình. Đám phụ nữ Avonlea trả thù bằng những lời đồn khủng khiếp về chuyện bếp núc và nội trợ của ông ta. Ông ta đã thuê cậu bé John Henry Carter ở White Sands và John Henry là nguồn phát tán những lời đồn này. Nào là ở nhà ông Harrison không có giờ giấc ăn uống cố định gì cả. Ông Harrison khi nào đói thì “nếm tí chút” và nếu lúc đó có John Henry lảng vảng quanh đấy thì cậu được chia phần, nhưng nếu cậu không có may mắn đó thì phải đợi đến khi ông Harrison đói lại. John Henry đau đớn quả quyết rằng hẳn là cậu đã chết đói nếu không được về nhà ăn no căng bụng mỗi Chủ nhật và mẹ cậu luôn gói ghém một giỏ đồ ăn để cậu đem theo mỗi sáng thứ Hai.
Hơn nữa, ông Harrison chẳng bao giờ để tâm đến việc rửa chén, trừ phi là vào một ngày Chủ nhật trời mưa. Khi đó, ông ta ra tay rửa bát đĩa hết một lượt trong máng lợn chứa nước mưa rồi để mặc cho chúng tự khô.
Ngoài ra, ông Harrison khá là “keo”. Khi được đề nghị đóng góp trả lương cho mục sư Allan, ông ta nói là phải đợi xem những bài giảng của mục sư đáng giá bao nhiêu đô la trước đã... rằng ông ta không tin vào chuyện bịt mắt mua dê. Rồi khi bà Lynde đến xin đóng góp cho việc truyền giáo... và tình cờ nhìn thấy tình trạng bên trong căn nhà... ông ta đã nói với bà rằng số kẻ ngoại đạo trong đám bà tám ở Avonlea nhiều hơn hẳn bất cứ nơi nào khác ông ta biết, và ông ta sẵn sàng góp tiền để giúp bọn họ “cải tà quy chính” nếu bà Lynde chịu lãnh trách nhiệm đó. Bà Rachel bỏ đi một nước và tuyên bố thật may bà Robert Bell đã xuống mồ, nếu không bà ấy sẽ vỡ tim nếu thấy tình cảnh ngôi nhà mà mình từng hết sức tự hào.
“Chứ còn gì nữa, chị ấy cọ rửa sàn bếp hai ngày một lần,” bà Lynde căm phẫn nói với bà Marilla Cuthbert, “và giá như cô có thể nhìn thấy nó bây giờ! Tôi phải vén váy lên mới dám bước qua đấy.”
Cuối cùng, ông Harrison nuôi một con vẹt tên là Gừng. Chưa có ai ở Avonlea từng nuôi vẹt, chính vì vậy chuyện nuôi vẹt được coi là không đứng đắn chút nào. Lại còn con vẹt đấy nữa! Nếu tin vào lời cậu trai John Henry Carter nói thì chưa bao giờ có con chim nào xấu xa đến thế. Nó chửi thề trời thần đất quỷ. Bà Carter mà biết chắc tìm được chỗ làm khác cho cậu là bà sẽ dắt John Henry đi ngay. Bên cạnh đó, Gừng đã mổ mất một mẩu thịt sau gáy của John Henry khi cậu chàng cúi rạp xuống quá gần cái lồng. Bà Carter cho mọi người xem vết sẹo khi cậu John Henry xui xẻo về nhà vào Chủ nhật.
Tất cả những chuyện này thoáng hiện trong đầu Anne trong lúc ông Harrison đứng trước mặt cô, nghẹn lời vì quá tức tối. Khi ở trạng thái thân thiện nhất, ông Harrison cũng không thể được coi là đẹp trai; ông ta vừa lùn vừa béo lại vừa hói đầu; còn bây giờ, với khuôn mặt tròn vo tím bầm giận dữ cùng đôi mắt xanh lơ như lồi ra khỏi đầu, Anne cho rằng ông ta quả là người xấu xí nhất mà cô từng thấy.
“À, dù sao thì anh ta cũng chả lấy cô nàng, và cô nàng thì cứ quái quái gở gở kể từ đó, nghe đồn thế... sống một mình trong ngôi nhà đá tí ti mà cô nàng đặt tên là Nhà Vọng. Stephen đi sang Mỹ, làm ăn chung với ông chú và cưới một cô ả Yankee[2]. Từ đó đến giờ anh ta chưa về nhà lần nào, bà mẹ thì có đi thăm con một hai lần. Vợ anh ta mất hai năm trước nên anh ta gửi con về cho mẹ một thời gian. Nó mười tuổi rồi, và tôi chả biết nó có phải là học sinh gương mẫu hay không. Chẳng thể trông đợi gì nhiều vào bọn Yankee ấy được.”
Bà Lynde xem thường tất cả những ai không có may mắn được sinh ra hay lớn lên ở đảo Hoàng Tử Edward với vẻ cái khinh khỉnh có-gì-tốt-ở-ngoài-Nazareth[3]. Họ có thể là người tốt, đương nhiên, nhưng dù sao thì vẫn phải đề phòng trước đã. Bà có thành kiến đặc biệt với “Yankee”. Chồng bà có lần bị một ông chủ ở Boston lừa mất mười đô, và không một thiên sứ, ông hoàng hay thế lực nào có thể thuyết phục bà Rachel rằng cả nước Mỹ không đáng phải chịu trách nhiệm về chuyện đó.
“Có thêm chút đổi mới ở trường Avonlea thì cũng chẳng chết ai,” bà Marilla lạnh nhạt nói, “Với lại nếu cậu bé này giống cha thì mọi chuyện sẽ ổn thôi. Steve Irving là chàng trai dễ thương nhất ở đây, dù vài người cho rằng anh ta kiêu căng. Tôi nghĩ bà Irving sẽ rất vui khi có cháu nội đến ở chung. Từ khi chồng chết, bà ấy rất cô đơn.”
“Ồ, thằng bé ấy có thể tốt, nhưng dù sao thì nó cũng khác với trẻ em Avonlea,” bà Rachel nói dứt điểm. Ý kiến của bà về bất cứ ai, bất cứ nơi chốn hay vật gì vốn chẳng dễ dàng thay đổi. “Ta nghe nói cháu đang chuẩn bị thành lập Hội cải tạo Làng quê gì đấy, phải không Anne?”
“Cháu chỉ mới bàn với vài ba người bạn khi họp Câu lạc bộ Tranh luận lần trước thôi,” Anne đỏ mặt. “Họ nghĩ ý đấy cũng hay... ông bà Allan cũng vậy. Hội đấy đã được lập ở nhiều làng khác rồi.”
“Hừm, cháu mà cứ tiếp tục là sẽ gặp vô khối khó khăn đấy. Tốt nhất là để cho làng chúng ta yên, Anne, thế đấy. Mọi người không thích bị cải tạo đâu.”
“Ồ, chúng cháu đâu có định cải tạo con người. Chỉ là cải tạo Avonlea thôi. Có nhiều thứ cần làm để nó đẹp đẽ hơn. Ví dụ như nếu chúng ta có thể khuyên ông Levi Boulter kéo sập căn nhà cổ gớm ghiếc ở phía trên nông trại của ông ta, đó có thể coi là một cải tiến tốt không?”
“Đương nhiên rồi,” bà Rachel phải công nhận. “Cái phế tích cũ kỹ đấy làm chướng mắt cả vùng nhiều năm nay rồi. Nhưng nếu đám cải tiến viên của bọn cháu có thể dụ dỗ Levi Boulter làm không công việc gì đó cho công chúng thì hãy để cho ta đến chứng kiến từ đâu chí cuối nhé, thế đấy. Ta không muốn ngăn cản gì cháu, Anne à, bởi vì ý tưởng của cháu cũng có điểm có giá trị đấy, dẫu ta biết là cháu lại bị mấy cuốn tạp chí Yankee rác rưởi tiêm nhiễm. Nhưng cháu sẽ tối mắt tối mũi với trường học, và với tư cách một người bạn ta khuyên cháu đừng tốn công với mấy thứ cải tiến ấy nữa, thế đấy. Nhưng này, ta biết cháu sẽ theo đến cùng một khi cháu đã quyết tâm. Chẳng biết sao nhưng cháu luôn là người đã nói là làm.”
Có gì đó ở những đường nét kiên định trên đôi môi của Anne cho biết ý kiến của bà Rachel không cách xa sự thật mấy. Anne dốc lòng thành lập Hội cải tạo Làng quê. Gilbert Blythe dạy học ở White Sands nhưng luôn về nhà từ tối thứ Sáu đến sáng thứ Hai và rất hào hứng với ý tưởng đó, và đa số đám thanh niên còn lại sẵn sàng tham gia vào bất cứ thứ gì miễn là thỉnh thoảng có tụ họp và đôi chút “Vui vẻ.” Còn “cải tạo” có nghĩa là gì thì chẳng ai hiểu rõ trừ Anne và Gilbert. Bọn họ đã bàn bạc và lập kế hoạch chi tiết vì một Avonlea lý tưởng, ít nhất là trong tâm trí bọn họ.
Bà Rachel vẫn còn một tin nóng hổi nữa.
“Họ đã giao trường ở Carmody cho một cô tên là Priscilla Grant. ở trường Queen cháu có quen cô nào tên như vậy không, Anne?”
“Ồ có. Priscilla dạy ở Carmody! Ôi thật là trên cả tuyệt vời!” Anne kêu lên, đôi mắt xám sáng rực tựa như ánh sao đêm, khiến bà Lynde tự hỏi lần nữa liệu mình có thể khẳng định Anne Shirley có thực sự là một cô gái xinh đẹp hay không.