Anne Tóc Đỏ Làng Avonlea
Chương 17 : Một chuỗi rủi ro
Ngày đăng: 16:06 19/04/20
Anne tỉnh giấc ba lần trong đêm và lò dò mò ra cửa sổ để đảm bảo rằng lời dự đoán của bác Abe không trở thành sự thật. Cuối cùng, ánh bình minh trong suốt lấp lánh chiếu trên bầu trời rực rỡ ánh bạc, và một ngày tuyệt vời bắt đầu.
Ngay sau bữa sáng Diana đã có mặt, một tay cầm giỏ hoa, tay kia vắt chiếc váy xa tanh của mình... vì phải chuẩn bị xong bữa trưa mới mặc được cái váy đó. Trong lúc chờ đợi, cô mặc một chiếc váy in họa tiết màu hồng và tạp dề vải ba tít diềm xếp nếp đẹp nhưng diêm dúa đến phát sợ, nhìn cô thật gọn gàng, xinh đẹp và tươi tắn.
“Trông cậu đáng yêu cực kỳ,” Anne thán phục.
Diana thở dài.
“Nhưng tớ vừa phải nới tất cả các bộ váy của mình một lần nữa. Tớ nặng thêm gần hai ký so với hồi tháng Bảy. Anne, chừng nào tớ mới thôi phì ra đây? Các bậc anh thư của bà Morgan đều cao và thanh mảnh cả.”
“Ồ, hãy quên đi ưu phiền và nghĩ tới những điều may mắn mà chúng ta có được,” Anne vui vẻ khuyên. “Cô Allan nói rằng mỗi khi có thứ gì khiến chúng ta khó chịu, chúng ta nên nghĩ đến những điều tốt đẹp để giúp chúng ta chống lại nó. Nếu cậu hơi tròn một chút thì cậu sẽ có nụ cười lúm đồng tiền dễ thương hết mức, và nếu tớ có một cái mũi đầy tàn nhang thì dù sao hình dáng của nó vẫn ổn. Cậu thấy nước chanh có tác dụng không?”
“Ừ, tớ thấy vậy mà,” Diana nghiêm túc nhận xét, và Anne vui sướng dẫn đường ra vườn, nơi bóng cây mát rượi và những tia nắng vàng óng rung rinh.
“Mình sẽ trang trí phòng khách trước. Chúng mình còn ối thời giờ, vì Priscilla nói họ sẽ đến đây vào khoảng mười hai giờ hoặc muộn nhất là mười hai rưỡi, vậy chúng ta sẽ dùng bữa trưa lúc một giờ.”
Dám chắc là chẳng có cô gái nào ở Canada hay ở Mỹ vui vẻ và hào hứng hơn hai người bạn này bây giờ. Mỗi khi một cành hồng, mẫu đơn, hoa chuông xanh rơi xuống, tiếng kéo xành xạch lại như reo vui, “Hôm nay bà Morgan tới.” Anne tự hỏi làm sao ông Harrison có thể thản nhiên cắt cỏ khô trên cánh đồng bên kia đường cứ như chẳng có chuyện gì xảy ra.
Phòng khách ở Chái Nhà Xanh vốn là một gian khá nặng nề và ảm đạm với nội thất màu lông ngựa cứng nhắc, màn đăng ten hồ cứng, áo ghế trắng luôn nằm ngay ngắn đúng nơi đúng chỗ, trừ những lúc nó bị vướng vào nút áo của một người không may mắn nào đó. Ngay cả Anne cũng chẳng tài nào nhúng tay làm phòng khách duyên dáng hơn, vì bà Marilla khăng khăng không cho phép thay đổi gì. Nhưng có điều kỳ diệu gì mà hoa lá không thể làm khi ta cho chúng cơ hội chứ; khi Anne và Diana trang trí xong, căn phòng đã hoàn toàn khác hẳn.
Một bát hoa tuyết xanh thật lớn xòe tung giữa cái bànlên nước bóng. Bệ lò sưởi đen bóng đặt đầy hoa hồng và dương xỉ. Mỗi ngăn tủ đều được trang trí một bó hoa chuông xanh, góc tối hai bên lò sưởi sáng lên bởi hai lọ hoa mẫu đơn đỏ thắm, còn trong lò như được thắp lửa bởi màu vàng của hoa anh túc. Với những đóa hoa lộng lẫy đủ màu ấy, kết hợp với ánh mặt trời xuyên qua đám dây kim ngân rợp lá leo trên cửa sổ tạo thành những bóng xám nhảy nhót trên tường và sàn nhà, căn phòng nhỏ ảm đạm thường ngày đã biến thành một “Vườn hoa” thực sự như trong trí tưởng tượng của Anne, đến bà Marilla cũng phải thốt lên ngưỡng mộ khi bước vào để phê phán nhưng rồi lại phải dừng chân khen ngợi.
“Giờ thì chúng ta phải bày bàn ăn thôi,” Anne nói với giọng của một nữ tu đang chuẩn bị thực hiện những nghi lễ thiêng liêng vinh danh một vị thần. “Chúng ta sẽ đặt một cái bình lớn cắm đầy hoa hồng dại ở giữa bàn và một bông hồng đằng trước đĩa của từng người - riêng đĩa của bà Morgan thì sẽ đặt một bó đầy những nụ hồng, ám chỉ quyển sách Vườn nụ hồng đấy, cậu biết mà.”
Bàn ăn được dọn trong phòng ăn, với khăn ăn vải lanh đẹp nhất cũng như đồ sứ, thủy tinh và đồ bạc hạng nhất của bà Marilla. Có thể hoàn toàn chắc chắn rằng mỗi dụng cụ trên bàn đều được đánh bóng, kỳ cọ đến mức long lanh lấp lánh hoàn hảo nhất.
Rồi các cô gái nhún nhảy bước xuống bếp, mùi thơm phức tỏa ra từ lò nướng nơi hai con gà đang kêu xèo xèo. Anne gọt khoai tây và Diana nhặt đậu cô ve cùng đậu Hà Lan. Sau đó, khi Diana chui vào phòng lương thực để chế biến món rau diếp trộn, Anne với đôi má đã bắt đầu ửng đỏ vì ánh lửa cũng như vì hào hứng, ra tay chuẩn bị nước xốt bánh mì cho món gà, băm nhỏ hành cho món xúp rồi đánh kem cho món bánh nướng chanh.
Trong suốt thời gian kể trên, Davy đang ở đâu? Liệu nó có tuân thủ lời hứa sẽ ngoan ngoãn không? Nó quả có nghe lời. Đương nhiên, nó nằng nặc đòi ở lại trong bếp vì tò mò muốn quan sát mọi chuyện. Nhưng vì nó ngồi ngoan ngoãn trong góc, bận bịu tháo những nút thắt trong một mảng lưới đánh cá trích mang về từ lần ra bãi biển kỳ trước, chẳng ai phản đối sự có mặt của nó cả.
Lúc mười một rưỡi, món rau diếp trộn đã xong xuôi, bánh nướng vàng rộm được phủ đầy kem tươi, mọi thứ cần sôi xèo xèo hay sôi sùng sục đều đang xèo xèo và sùng sục.
“Chúng ta đi thay váy thôi,” Anne nói, “Vì có thể bọn họ sẽ đến vào mười hai giờ. Chúng ta phải ăn trưa đúng một giờ, vì món xúp phải được dọn lên ngay sau khi sôi.”
“Ôi,” Anne thở dài, đặt lá thư xuống bậc thềm đá đỏ ở cổng sau, cô đang ngồi đó trong ánh chiều chập choạng phủ xuống từ bầu trời loang lổ, “mình luôn cho rằng việc bà Morgan đến đây quá tốt đẹp để trở thành sự thật. Nhưng này... câu nói đó nghe bi quan như là giọng của cô Eliza Andrews vậy, và mình thật xấu hổ khi thốt ra miệng. Dù sao chăng nữa, chuyện đó đâu có quá tốt đẹp đến mức không thực... còn nhiều việc tốt đẹp hơn thế nữa vẫn thường xuyên xảy đến với mình đấy thôi. Với lại mình cho rằng những chuyện xảy ra trong ngày hôm nay cũng có mặt tức cười của chúng. Có lẽ khi mình và Diana đã già héo cả ra, chúng mình sẽ có thể phá lên cười khi nhớ lại. Nhưng giờ thì mình cảm thấy mình chưa làm được vậy, vì hôm nay đúng là một ngày thất vọng cay đắng.”
“Cháu có thể còn gặp rất nhiều thất vọng nặng nề hơn thế trong cuộc đời,” bà Marilla nói, cho rằng mình đang an ủi Anne. “Anne ạ, ta thấy cháu sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi cái thói dốc hết lòng hết sức để làm một việc gì đó, rồi sau đó rơi xuống tuyệt vọng vì không đạt được nó.”
“Cháu biết là cháu có khuynh hướng đó thật,” Anne buồn bã đồng ý. “Khi cháu nghĩ sắp có chuyện gì đó thật hay xảy ra, cháu như được chắp đôi cánh chờ mong bay lên thật cao; rồi sau đó cháu đột nhiên nhận ra mình bị rớt cái bịch xuống mặt đất. Nhưng thật ra, bác Marilla ạ, bay bổng như vậy hết sức tuyệt vời, ít nhất là trong khi còn đang bay... cứ như vút lên trong ánh hoàng hôn vậy. Cháu nghĩ có ngã cái rầm cũng gần như là đáng giá.”
“Ừ, có lẽ là thế thật,” bà Marilla thừa nhận. “Có điều ta thà đi bộ thong dong mà chẳng cần bay hay té ngã làm gì. Nhưng mỗi người có một cách sống khác nhau... ta từng nghĩ chỉ có một cách đúng đắn mà thôi... nhưng từ khi ta nuôi dạy cháu và hai đứa sinh đôi, ta không còn chắc chắn về điều đó nữa. Cháu định xử lý chuyện cái đĩa men của cô Barry thế nào?”
“Trả lại cho cô ấy số tiền hai mươi đô mà cô ấy đã bỏ ra mua nó, chắc thế thôi ạ. Cháu hết sức biết ơn Chúa khi nó không phải là một vật quý gia truyền, bởi vì nếu vậy thì chẳng tiền nào có thể thay thế được.”
“Có lẽ cháu nên tìm xem có cái đĩa nào giống vậy mà mua trả lại cho cô ấy.”
“Cháu e là không được. Cái đĩa xưa như vậy rất hiếm. Bà Lynde còn chẳng tìm được cái nào cho bữa tối từ thiện mà. Cháu chỉ ước chi mình có thể tìm được, vì đương nhiên cô Barry sẽ không để ý nếu cháu trả lại cho cô ấy cái đĩa cổhàng thật giống cái bị vỡ. Bác Marilla ơi, nhìn ngôi sao to phía trên khu rừng phong của ông Harrison kìa, với bầu trời bạc mang vẻ thần thánh xung quanh nữa. Nó khiến cháu có cảm giác như mình đang cầu nguyện. Xét cho cùng, một khi có thể nhìn thấy bầu trời và những ngôi sao như vậy, những thất vọng và rủi ro nhỏ nhoi chẳng đáng gì, phải không?”
“Davy đâu?” Bà Marilla liếc nhìn ngôi sao chẳng có chút hứng thú gì.
“Trên giường. Cháu đã hứa mai sẽ dẫn nó và Dora đi dã ngoại ở bờ hồ. Đương nhiên, thỏa thuận ban đâu là nó phải ngoan ngoãn. Nhưng nó đã cố gắng ngoan ngoãn... mà cháu thì không nỡ làm nó thất vọng.”
“Cháu hay hai đứa nhỏ sẽ chết đuối mất thôi khi chèo cái thuyền dỏm đó trên hồ,” bà Marilla làu bàu. “Ta đã sống ở đây sáu chục năm trời mà chẳng bao giờ đặt chân tới cái hồ đó.”
“Ồ, vẫn chưa quá muộn đâu,” Anne tinh nghịch. “Hay là mai bác đi với bọn cháu đi. Chúng ta sẽ đóng cửa Chái Nhà Xanh và dành cả ngày trên bờ hồ, gạt bỏ cả thế giới qua một bên.”
“Không, cảm ơn,” bà Marilla gằn giọng phẫn nộ. “Nhìn ta chắc sẽ đẹp mặt lắm khi chèo lòng vòng quanh hồ trên một cái thuyền nhỉ? Chưa gì ta đã nghe thấy tiếng Rachel bày tỏ ý kiến về hành động đó rồi đây này. Kìa, ông Harrison đang đánh xe đi đâu đó thì phải. Cháu có cho lời đồn ông Harrison đang cưa cẩm Isabella Andrews là thật không?”
“Không, cháu chắc là không đúng đâu. Ông ấy chỉ ghé qua một buổi chiều để bàn chuyện làm ăn với ông Harmon Andrews, bà Lynde nhìn thấy và tuyên bố là biết ngay ông ấy đang đi cưa cẩm vì ông ấy mặc áo cổ cồn trắng. Cháu không tin ông Harrison chịu lập gia đình đâu. Ông ấy dường như có thành kiến với hôn nhân.”
“Ôi, đám đàn ông độc thân già đấy khó nói lắm. Và nếu ông ta mặc áo cổ cồn trắng thật thì ta đồng ý với Rachel là rất đáng nghi, vì ta chắc chắn chưa từng thấy ông ta mặc áo cổ cồn trắng lần nào.”
“Chắc ông ấy mặc thế chỉ vì muốn ký một hợp đồng làm ăn với ông Harmon Andrews mà thôi,” Anne nói. “Cháu có nghe ông ấy nói rằng đó là lúc duy nhất một người đàn ông cần phải quan tâm đến bề ngoài, vì nếu ông ta nhìn có vẻ giàu có thì phía bên kia ít có khả năng lừa ông ta hơn. Cháu cảm thấy thương cho ông Harrison; cháu không tin rằng ông ấy hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình. Chắc là rất cô đơn khi chẳng có ai khác để quan tâm ngoài một con vẹt, bác có nghĩ vậy không? Nhưng cháu để ý thấy ông Harrison không thích bị thương hại. Không ai thích thế, cháu nghĩ vậy.”
“À, Gilbert đến kìa,” bà Marilla nói. “Nếu cậu ta muốn rủ cháu đi chèo thuyền thì cháu đừng quên mặc áo khoác và đi ủng cao su vào nhé. Tối nay sương nhiều đấy.”