Anne Tóc Đỏ Làng Avonlea

Chương 25 : Vụ bê bối ở avonlea

Ngày đăng: 16:06 19/04/20


Một sáng tháng Sáu tươi đẹp nọ, hai tuần sau cơn bão của bác Abe, Anne từ vườn chầm chậm đi xuyên qua sân trước Chái Nhà Xanh, tay cầm hai cành thủy tiên trắng ẽo ợt.



“Nhìn này, bác Marilla,” cô buồn bã thốt, giơ hai cành hoa lên trước mặt một bà đeo tạp dề vải bông kẻ ô xanh, vẻ mặt nghiêm nghị, tóc cuộn, đang đi vào nhà tay cầm một con gà đã nhổ sạch lông, “chúng là những nụ hoa duy nhất mà cơn bão bỏ qua... nhưng đến cả chúng cũng không hoàn hảo nữa. Cháu buồn quá... cháu muốn đặt hoa lên mộ bác Matthew. Bác ấy lúc nào cũng thích hoa loa kèn tháng Sáu cả.”



“Ta cũng thấy hơi nhơ nhớ mấy bông hoa,” bà Marilla thú nhận, “dù thương xót hoa hoét như thế thì thật không nên không phải khi có quá nhiều chuyện tồi tệ hơn xảy ra... trái cây lẫn hoa màu đều bị hư hỏng hết cả.”



“Nhưng mọi người đã bắt đầu gieo hạt lại,” Anne an ủi, “và ông Harrison nói nếu mùa hè thời tiết tốt thì hạt giống sẽ nảy mầm thôi mặc dù có muộn một chút. Và mấy cái cây thường niên của cháu lại nhú mầm lên lại... nhưng chao ôi, chẳng gì có thể thay thế những đóa loa kèn tháng Sáu. Hester Grey bé bỏng đáng thương cũng chẳng có đóa hoa nào. Tối qua cháu đi đến tận vườn của cô ấy, nhưng hoa đều bị hư hết cả. Chắc cô ấy sẽ nhớ chúng lắm.”



“Ta cho rằng cháu không nên nói những điều như thế, Anne ạ, thực sự là không nên,” bà Marilla nghiêm khắc. “Hester Gray đã chết ba mươi năm nay rồi, và linh hồn cô ta đang ở trên thiên đường... ta hy vọng thế.”



“Vâng, nhưng cháu tin cô ấy vẫn yêu thương nhớ nhung khu vườn của mình ở đây,” Anne nói. “Cháu dám chắc dẫu cháu có sống bao lâu trên thiên đường đi nữa, cháu vẫn sẽ thích nhìn xuống xem xem có ai đặt hoa lên mộ mình không. Nếu cháu có riêng một khu vườn như Hester Gray thì chắc phải mất hơn ba mươi năm trời, dẫu là đang ở thiên đường, mới có thể phù phép làm cháu khuây khỏa nỗi nhớ nhung nó.”



“Trời ơi, đừng để hai đứa trẻ sinh đôi nghe cháu nói chuyện như thế,” bà Marilla phản đối một cách yếu ớt rồi đem gà vào trong nhà.



Anne gắn bông thủy tiên lên tóc rồi đi ra cổng, cô đứng đó một lúc tắm mình trong ánh nắng tháng Sáu rực rỡ trước khi tất tả đi làm những công việc sáng thứ Bảy của mình, cảnh sắc đang dần tươi đẹp trở lại, mẹ thiên nhiên đang làm hết sức để gỡ bỏ dấu vết của cơn bão, và dẫu trong nhiều tháng tới việc đó vẫn chưa thể hoàn thành, kết quả đạt được lúc này cũng hết sức ấn tượng.



“Ta ước gì được rảnh rỗi nguyên ngày hôm nay,” Anne nói với chú chim sơn ca đang líu lo trên cành liễu, “nhưng một cô giáo làng đang có trách nhiệm phụ giúp nuôi lớn hai đứa trẻ sinh đôi thì không thể đắm mình trong sự lười nhác được, chim cưng à. Giọng hát của mi ngọt ngào quá, chú chim bé nhỏ. Mi đưa mọi cảm xúc của trái tim ta vào bài hát còn thuần thục hơn cả ta nữa. Ồ, ai đang đến thế nhỉ?”



Một chiếc xe ngựa tốc hành đang lóc cóc chạy ngược con đường, hai người ngồi ở ghế trước và một cái hòm lớn đằng sau. Khi nó chạy lại gầnr Anne nhận ra người đánh xe là con ông quản lý trạm xe lửa ở Bright River, nhưng người đồng hành thì không biết là ai... một bóng phụ nữ nhanh chóng nhảy xuống trước cổng khi ngựa còn chưa kịp dừng lại hẳn. Bà là một phụ nữ nhỏ bé xinh đẹp, tuổi rõ ràng là gần năm mươi hơn là bốn mươi, nhưng má đỏ hồng, mắt đen lay láy, tóc đen óng ả, đầu đội chiếc mũ đính hoa và lông chim xinh hết chỗ nói. Mặc dầu đi xe dọc đoạn đường bụi bặm dài gần tám dặm, nhìn bà vẫn gọn gàng tề chỉnh cứ y như vừa bước ra khỏi hộp quà.



“Đây có phải là nơi ông James A. Harrison sống không?” bà hỏi nhanh.



“Không, ông Harrison sống ở đằng kia,” Anne ngẩnngười ngạc nhiên.



“Ồ, tôi đã nghĩ rằng nơi này quá sạch sẽ mà... quá sạch nên không thể là nơi ở của James A., trừ phi ông ta đã thay đổi chóng mặt kể từ lần cuối tôi gặp,” quý bà nhỏ nhắn ríu ran. “Có phải James A. sắp cưới một phụ nữ nào đó sống ở vùng này không?”



“Không, không đâu,” Anne kêu lên, đỏ bừng mặt vẻ hối lỗi khi thấy người phụ nữ lạ mặt này tò mò nhìn mình, cứ như bà ta nghi ngờ rằng cô có ý đồ hôn nhân gì đó với ông Harrison vậy.



“Nhưng tôi đọc thấy vậy trên một tờ báo của đảo mà,” quý bà xinh đẹp lạ mặt khăng khăng. “Một người bạn gửi một bản có đánh dấu cho tôi... bạn bè lúc nào cũng sẵng sàng làm những việc kiểu ấy. Tên của James A. được viết ngay phía trên công dân mới.’”



“Ồ, mẩu tin ấy chỉ là để đùa thôi,” Anne nghẹn lời kinh ngạc. “Ông Harrison không có ý định kết hôn với bất cứ ai cả. Cháu đảm bảo với bác như thế.”




“James A. đã kể rất nhiều về cháu, cháu đã tốt bụng làm bánh trái và đủ thứ cho ông ấy ra sao,” bà nói. “Tôi muốn làm quen với tất cả các láng giêng mới của mình càng sớm càng tốt. Bà Lynde là một phụ nữ dễ mến, phải không? Hết sức thân thiện.”



Khi Anne đi về nhà trong ánh hoàng hôn dịu dàng tháng Sáu, bà Harrison cùng đi băng qua cánh đồng với cô, nơi đom đóm đang thắp lên những ngọn đèn nhấp nháy như sao.



“Chắc,” bà Harrison tâm tình, “James A. đã kể cho cháu nghe câu chuyện của chúng tôi?”



“Đúng vậy.”



“Thế thì tôi cũng chẳng cần kể lại nữa, vì JamesA. là một người công bằng và chỉ nói sự thật. Lỗi còn xa mới chỉ thuộc về ông ấy. Giờ tôi mới nhận ra điều đó. Về nhà chưa được một tiếng tôi đã bắt đầu hối hận giá như mình đừng có hấp tấp như vậy, nhưng tôi không chịu lùi bước. Giờ tôi mới thấy mình mong đợi quá nhiều ở một người đàn ông. Và tôi thật ngốc nghếch khi để ý đến ngữ pháp tồi tệ của ông ấy. Đàn ông có nói sai ngữ pháp cũng chẳng sao, chỉ cần ông ấy kiếm tiền nuôi gia đình và đừng có đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành là được. Tôi cho rằng James A. và tôi giờ sẽ hạnh phúc thực sự. Tôi ước gì mình biết Người quan sát là ai để nói lời cảm ơn. Tôi quả thật đã mang nợ ân tình của ông ta.”



Anne giữ im lặng và bà Harrison không bao giờ biết rằng lòng biết ơn của bà đã được gửi cho đúng đối tượng. Anne cảm thấy khá hoang mang trước những hệ quả sâu rộng của những “mẩu tin” ngớ ngẩn đó. Chúng đã giúp hai vợ chồng làm hòa với nhau và khiến một nhà tiên tri trở nên nổi tiếng.



Bà Lynde đang ở trong bếp Chái Nhà Xanh. Bà đang kể đầu đuôi câu chuyện cho bà Marilla.



“Ồ, cháu có thích bà Harrison không?” bà Lynde hỏi Anne.



“Rất thích. Cháu nghĩ bà ấy là một phụ nữ thực sự dễthương.”



“Hoàn toàn chính xác,” bà Rachel nhấn mạnh, “và như tôi vừa nói với Marillla, tôi nghĩ chúng ta nên bỏ qua tính lập dị của ông Harrison vì bà ấy, và giúp bà ấy làm quen với cuộc sống ở đây, thế đấy. ôi, tôi phải về nhà thôi. Thomas chắc đang trông tôi lắm. Tôi đi ra ngoài được một chút vì Eliza tới, và ông ấy trông khá hơn nhiều mấy bữa nay, nhưng tôi chẳng bao giờ muốn rời ông ấy quá lâu. Nghe nói Gilbert Blythe đã xin nghỉ dạy học ở White Sands. Tôi cho rằng cậu ta sẽ đi học đại học vào mùa thu.”



Bà Rachel liếc mắt sắc lẻm nhìn sang Anne, nhưng Anne đang cúi xuống bé Davy đang ngủ gà ngủ gật trên xô pha và mặt cô kín bưng bưng. Cô ẵm Davy đi, gò má con gái của cô áp lên mái tóc xoăn vàng của nó. Khi họ đi lên cầu thang, Davy quàng cánh tay mệt mỏi quanh cổ Anne, ôm chặt cô và hôn một cái hôn ướt nhẹp lên má cô.



“Cô dễ thương khủng khiếp, cô Anne ạ. Milty Boulter viết lên bảng cho Jenni Sloane coi hôm nay,



Hoa hồng thì đỏ, violet thì xanh.



Đường thì ngọt và em cũng thế.’



Và những lời đó diễn tả chính xác cảm xúc của cháu đối với cô, cô Anne ạ.”