Bảo Đại, Hay Là Những Ngày Cuối Cùng Của Vương Quốc An Nam
Chương 114 :
Ngày đăng: 12:05 19/04/20
Ngày 22 tháng 9 năm 1940, quân đội Phù Tang tiến vào Bắc Kỳ.
Đây không phải là sự đảo lộn gì lớn đối với Bảo Đại. Ở Huế các thói quen của ông vẫn y nguyên. Trong phần lớn thời gian chiến tranh Thái Bình Dương, Hoàng hậu Nam Phương và các con vẫn ở Đà Lạt. Lúc này chiến tranh chưa ảnh hưởng gì lớn lắm đối với nước An Nam của Bảo Đại. Nhờ khoảng cách còn xa các vùng chiến sự và chính sách khôn khéo của Toàn quyền Decoux mà Đông Dương vẫn y nguyên một cách kỳ lạ. Nhưng người "bản xứ" mới chỉ biết chiến tranh thế giới qua báo chí. Mặc dù thất bại ở chính quốc và những đảo lộn chính trị tiếp theo, nước Pháp vẫn giữ nguyên uy quyền của mình ở Đông Dương. Người Nhật vẫn kín đáo. Họ đóng quân xa trung tâm các thành phố, dân chúng ít trông thấy họ: Quân đội của nước Mặt Trời Mọc còn nhiều việc phải làm ở những nơi khác. Tuy nhiên họ vẫn hiện hữu, hùng mạnh và đe doạ.
Thoạt đầu, người dân thường tỏ ra ít nể trọng người Nhật. Elula Perrin, một nữ ký giả Pháp trẻ tuổi có mặt ở Huế năm 1940 viết: "Những người Nhật đầu tiên kéo vào chiếm đóng Đông Dương là những người lính đẹp trai, thân hình cao lớn, tính tình cương nghị và hiếu động, mũi thẳng, đầu trọc đội mũ calô có mảnh vải che kín gáy. Đó là những người Nhật phương bắc... Cuộc chiến tranh Nga-Nhật năm 1904 hẳn đã để lại những đứa con lai... Họ đi bộ hoặc ngồi trên xe ôtô tải, cất tiếng hát trầm hùng những hành khúc rất nhịp nhàng"(1).
Nhưng những người lính hiếu động ấy không chỉ làm chiến tranh như thêu thùa đăng-ten. Mấy hôm trước họ đã hạ sát tám trăm lính Pháp và Việt. Những cuộc thương lượng về việc cho họ đóng quân ở Bắc và Trung Kỳ đã kéo dài và hình như kết quả đạt được không được rõ ràng lắm. Họ đã tấn công nhanh gọn các đồn Pháp ở bắc Lạng Sơn gần biên giới Trung Hoa. Sau đó họ đấu dịu và trước sự phản đối kịch liệt của chính phủ Vichy ở Pháp, họ đã rút lui.
Quân đội Thiên hoàng không chiếm đóng Trung Kỳ. Sự có mặt của họ chỉ được chứng thực bằng một hiệp định mơ hồ về phòng thủ chung(2), nói theo một cách khác là họ đến để bảo vệ Đông Dương.
Thật là một tình thế lạ lùng mà người Pháp miễn cưỡng chấp nhận. Ngoài trận Lạng Sơn và giám sát đường biên giới với Trung Quốc từ nay vĩnh viễn đóng cửa, những người lính Nhật không phải là những người có đầu óc thù hằn. Họ đến đóng quân vì châu Á đang có chiến tranh. Và sự có mặt của họ ở Bắc Kỳ nhằm cắt con đường chuyên chở vũ khí cho quân Quốc dân Đảng Trung Hoa. Thoạt đầu quân đội Nhật chỉ yêu cầu đóng cửa biên giới với Trung Hoa sau đó đòi kiểm soát xem đã đóng kín chưa. Và sự đòi hỏi đó đã được chấp nhận.
Vào mùa hè năm 1940 nhà đương cục Pháp ở Đông Dương đơn độc. Nước Pháp đã thua trận, Pétain lên cầm quyền nhưng không có người, không có phương tiện giúp Đông Dương tránh khỏi bị Nhật xâm lược. Vì vậy đô đốc Decoux phải chấp nhận đồng ý để quân Nhật của xứMặt Trời Mọcđóng quân trên lãnh thổ Bắc Kỳ và Trung Kỳ, và sau đó mau chóng vào tận Nam Kỳ. Vì người Nhật không chỉ bằng lòng với việc kiểm soát biên giới để chặn đứng con đường tiếp tế vũ khí cho Trung Hoa. Ngoài ra khắp nơi ở châu Á họ đã chiếm nhiều quốc gia và một mình cai trị. Họ cũng có thể làm như thế ở Việt Nam nhưng chắc hẳn là bộ máy cai trị của người Pháp ở Đông Dương còn có lợi ích thiết thực cho họ vì vậy họ quyết định duy trì quyền lực của Toàn quyền Đông Dương. Đây chỉ là đánh một ván bài khác để rồi sẽ chơi ván sau mà thôi... Mục đích cuối cùng vẫn là thành lập khu Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Vả lại, Tokyo đã tuyên bố năm xứ Đông Dương (Bắc, Trung, Nam Kỳ, Lào và Cao Miên) sẽ thành lập liên bang tự trị và thoát khỏi sự lệ thuộc vào Pháp tất nhiên là lệ thuộc vào Nhật Bản. Vậy nay Pháp và Nhật hợp tác ở châu Á chừng nào xung quanh ngọn lửa chiến tranh bùng lên đang bị chia xé. Chính quyền bảo hộ và quân đội Phù Tang, hai bên thi nhau trổ tài xảo quyệt và khôn khéo trong bối cảnh hữu nghị Pháp - Nhật kỳ cục không thiếu một số mặt gây cho nhau sự khó chịu...
Ví như Toàn quyền Đông Dương, đô đốc Decoux trao tặng bội tinh Nam Long của triều đình An Nam, cho các tướng lĩnh Nhật như Nishihara và Sumita hồi tháng 10 năm 1940. Nhiều hoạt động hỗn hợp hai bên được tổ chức: hội hoạ, thơ ca, các cuộc viếng thăm của trí thức và nghệ sĩ Nhật Bản, tin tức về xã hội thượng lưu ở Nhật Bản... Tất cả đều đưa ra hình ảnh mối quan hệ giao hảo, tự nhiên giữa hai nước láng giềng.
BáoIndochine(Đông Dương) số ra tháng 7 năm 1942 còn đi xa hơn nữa bằng cách kêu gọi người Việt Nam có thái độ hữu hảo anh em với kẻ chiếm đóng Nhật.
Bảo Long đi học trường Les Oiseaux của công giáo như mẹ cậu trước đây khi còn nhỏ. Bạn học của cậu là một số người Việt, con cái những người có địa vị cao trong xã hội quan chức hay thượng thư, còn lại phần lớn là con em gia đình người Âu, có cơ hội hay điều kiện sống ở đây.
Cũng nhờ gia đình Nam Phương cho đất và bỏ tiền xây dựng, trường Les Oiseaux đưa các sơ về đây.
Trường Les Oiseaux đã thành công tuyệt vời ở Neuiìly bên Pháp và đã xây một tu viện ở Đà Lạt bởi vì gia đình Nam Phương đã về đây. Gia đình bà có đủ phương tiện tài chính, lại có quan hệ mật thiết với Giáo hoàng Pie XI nên nhanh chóng được sự chấp thuận. Bảo Long ban đầu học ở trường Les Oiseaux sau đó chuyển sang Adran cũng do nhà thờ công giáo bảo hộ và cũng ở Đà Lạt, dạy theo chương trình Pháp được coi là hoàn hảo nhất Việt Nam. Bảo Long có nhiều bạn cùng trang lứa nhưng không có bạn thân. Các bạn cùng lớp tuy tất cả đều là trẻ con nhưng có thái độ dè dặt xa lánh cậu.
Nhưng điều đó không làm cậu khó chịu. Cậu ta không hiểu thế nào là tình bạn, là sự ồn ào trong giờ ra chơi và cả những cuộc ẩu đả khi tan học. Nhà vua tương lai được coi là một đứa trẻ ngoan ngoãn.
Cứ mỗi tuần sau giờ thể dục cũng giống như phần lớn các trẻ em Pháp trong thời ấy, Bảo Long đứng thẳng người giơ cánh tay ra phía trước hát: "Thưa Thống chế! Có chúng tôi!".
Chính là ở đây, trong rặng thông làm đẹp thêm các ngọn đồi Đà Lạt bắt đầu cuộc đảo lộn. Người lính Nhật không phải là người đầu tiên Bảo Long gặp, đại sứ nước Mặt Trời Mọc Yokohama đã đến gặp vợ chồng Bảo Đại Nam Phương. Đó là một nhân vật nhã nhặn, có học thức, nói thạo tiếng Pháp, dễ giao thiệp... đến với tư cách khách mời của toà biệt điện. Gần như bạn thân của gia đình, như Bảo Đại sau này kể lại nhưng ông ta không có gì đặc biệt, không có gì lý thú như trường hợp anh lính Nhật. Đó là cuộc gặp năm 1945 cho đến lúc đó cậu ta không từng gặp quân đội ngoại quốc bao giờ.
Cậu là người ham thích vũ khí và quân đội từ khi còn thơ ấu nhưng cậu không nhìn thấy gì trong gần năm năm dưới sự bảo trợ của Nhật Bản.
Vài ngày nữa, vài tuần nữa, không khí hoà bình và thanh thản một cách kỳ lạ sẽ tàn nhẫn tiêu tan và chiến tranh bắt đầu.