Bảo Đại, Hay Là Những Ngày Cuối Cùng Của Vương Quốc An Nam
Chương 15 :
Ngày đăng: 12:05 19/04/20
Sau khi Bảo Đại vào ở trong hoàng cung được vài tuần, có một người đàn ông dáng điệu ngạo nghễ, hiên ngang tiến vào cửa chính. Ông này dáng người cao to hơn mức bình thường của đa số những người Việt Nam thời đó. ăn mặc sang trọng, nói to như dáng một hoàng thân hay một thầy giáo vào dạy trong nội cung. Ông ngẩng cao đầu, rảo bước điềm nhiên qua cổng lớn trước mặt bọn lính canh đang ngủ gà gật tiến vào Đại Nội và chỉ dừng lại ở cửa ngăn với Tử Cấm thành(1). Tại đây ông nói lớn tiếng hơn, giọng oang oang, với bọn thị vệ rằng ông muốn vào gặp Vua. Ông không "xin" được gặp mà "đòi" Vua phải tiếp ông. Khi mấy tên vệ binh Pháp ngăn cản hỏi ông yêu cầu vào gặp Vua để làm gì, ông này đã trả lời rành rọt khiến bọn này ngơ ngác tưởng ông bị bệnh tâm thần: "Ta muốn gặp vì ta là cha vua".
Tuy vậy một tên thị vệ cũng được phái ngay vào điện Kiến Trung, nơi ở của Bảo Đại để cấp báo. Trong khi chờ đợi, ông ngồi xuống không phải là chiếc ghế đẩu thông dụng mà một chiếc ghế bành đồ sộ dành cho ông.
Sự có mặt của ông đã gây xì xào trong khắp Đại nội, cả những người can trường nhất cũng phải đỏ mặt tủm tỉm cười. Những người trong Đại nội không lạ gì ông khách này. Đó là một người trong hoàng tộc mà Nhà vua phải gọi bằng cụ mới đúng vai vế. Ông cũng không còn lạ gì những tin đồn ác ý và nhạo báng ra mặt mà các bà có tính thóc mách thường hay rỉ tai nhau từ hai chục năm nay.
Năm 1912, hoàng tộc phải đối mặt với một thực tế đáng buồn. Ông hoàng Phụng hoá công là con vua Đồng Khánh bị bệnh liệt dương không thể có con. Bà vợ chính thất của ông rất buồn vì chồng đêm đêm chỉ mải mê đánh bạc chẳng đoái hoài gì đến chuyện chăn gối.
Bà còn trách cứ ông hoàng chỉ đòi bà làm sao xin gia đình cha mẹ đẻ cho nhiều tiền để thoả mãn máu mê cờ bạc. Chán nản, bà cả bỏ về ở với cha mẹ đẻ, cũng là một đại thần trong triều. Ông Phụng hoá công bèn chọn một bà hai cũng xuất thân quyền quý, trước đây đã định tiến cung nhưng không được Vua chấp nhận.
Song chẳng bao lâu, bà vợ hai này cũng không tránh khỏi thất vọng như bà cả. Ông Hoàng cũng chỉ ham mê bàn tứ sắc, tổ tôm hơn là ngó ngàng tới bà vợ mới. Ông Hoàng tội nghiệp này đã không có được niềm vui chăn gối lại buồn vì không có con nối dõi. Thời bấy giờ không có con trai là một bất hạnh lớn, có tội với tổ tiên. Lúc Thành Thái bị phế truất năm 1907, người Pháp định đưa ông hoàng Phụng hoá công lên nối ngôi, nhưng ngặt một nỗi ông đã 23 tuổi nhưng vẫn không có con - gọi là người vô hậu, đình thần không muốn đặt lên ngai vàng một người vô hậu nên phải chấp nhận Duy Tân (là con vua Thành Thái) lên làm vua. Không được hưởng thú vui chăn gối, ông hoàng Phụng hoá có nhiều bạn bè thân thiết lui tới để khi cùng nhau rượu chè cờ bạc trong đó có ông Hường Đ. Trạc tuổi ông hoàng nhưng về vai vế, ông hoàng phải gọi ông Hường Đ. là ông con nhà chú. Trong câu chuyện tâm sự ông Hường Đ thông cảm với nỗi khổ tâm của người cháu "bất lực" và để tạ ơn cho vay tiền đánh bạc, ông mách cho cháu một phương thuốc bổ dương làm bằng xương chồn hoang hầm với sâm nhung và nhiều vị thuốc bắc khác. Đó là một buổi tối năm 1912. Quả nhiên khi ăn xong ông hoàng Phụng hoá thấy hứng khởi ngay và sẵn có người đầy tớ gái trong nhà tên là Hoàng Thị Cúc đã được ông Hường Đ. chuẩn bị sẵn và may mắn sao cô Cúc đã thụ thai. Và câu chuyện đó hoàn toàn là sự thật. Ông hoàng Phụng hoá sắp có con, không phải với bà vợ cả luôn luôn niệm Phật trong chùa cũng không phải với bà vợ hai luôn oán giận mà với một người đàn bà xuất thân thấp hèn. Đình thần và họ hàng thân thích đều ngạc nhiên và mừng rỡ xem như có phép lạ. Tuy vậy hai bà, vợ cả và vợ hai, vẫn chưa hết ngạc nhiên thấy cô Cúc làm sao lại có thể dễ dàng thành công với người chồng bất lực của họ. Để xác minh thực hư, hai bà đã dỗ dành thậm chí dùng cả roi vọt để tra hỏi. Trước sau cô Cúc vẫn đinh ninh một lời khai là đích thị có mang với ông hoàng Phụng hoá chứ không có ai khác.
Tin mừng gần như chính thức được lan truyền. Những kẻ độc miệng trong đám cận thần cụt hứng không còn chế nhạo ông hoàng liệt dương và vô hậu.
Khi đứa bé ra đời nhiều người thân thích liếc mắt nhìn trộm xem nó có giống ông hoàng ở những chỗ nào. Càng dễ hơn vì thời gian này ông Hương Đ. cũng sinh hạ một đứa con trai nối dõi. Khổ một nỗi là cả hai đứa bé sao giống nhau như lột. Cũng cái đầu tròn bịch, chân tay cân đối, còn ông hoàng Phụng hoá thì dong dỏng cao người gầy.
Nhưng rồi điều bí mật mà mọi người đều biết tỏng được giữ kín. Chắc chắn là ông Hường Đ. đã làm cho cô Cúc có thai trước rồi ông tặng lại cho người cháu để tạ ơn đã giúp đỡ ông trong lúc túng bấn. Điều đó chẳng quan trọng gì với cô Cúc miễn là đứa con trong bụng cô, ai cũng biết là tác phẩm của ông hoàng Phụng hoá, biết đâu chẳng là con trai thì có nhiều hi vọng trở thành Đông cung Thái tử kế vị ngôi vua. Cô giữ cái thai đó và lặng lẽ làm lễ cưới. Thời đó hiếm có một người đàn bà xuất thân nghèo hèn lại đã mang bầu và leo lên chức vị mệnh phụ, dù chỉ là vợ ba.
Ông vua Khải Định bị liệt dương ai cũng biết. Thấy nói ông cưới thêm mười bà phi nữa nhưng không ai sinh được người con nào. Phép lạ đã hết thiêng. Nhưng lệ trong triều vẫn cho ông rất nhiều phi tần với đủ lục viện mà ông không hề đụng đến người nào. Được chọn trong số con gái có nhan sắc trong nước, họ có đến hàng trăm người, sống tàn tạ buồn phiền trong cung điện lạnh lùng băng giá. Đó là những bộ mặt tượng trưng cho một triều đại bình thường.
Ông già ngồi đợi khá lâu, người thị vệ mới trở ra cho biết Bảo Đại không muốn cho ông vào tiếp kiến. Ông nổi xung lên la lối om sòm, chửi bới lũ thị vệ, nguyền rủa cả Nhà vua và cận thần: "Cha nó mà nó cũng không coi ra gì", rồi ông đi thẳng ra về. Một tờ báo Pháp xuất bản ở Sài Gòn trong những năm 20 đã tiết lộ chuyện động trời này(2). Nhưng triều đình đã phủ nhận, sau đó, một bài vè được lưu truyền ngoài đường phố đế đô đã đưa ra một cách giải thích khác hẳn.
Còn có gì đáng ngạc nhiên bằng bà Hoàng hậu nọ đã hiến thân như một bông hoa dành cho người nào đên đầu tiên.
Nắm quyền lực tối cao, vua có quyền lấy bao nhiêu vợ tuỳ ý. Vua Tự Đức có một trăm linh ba bà. Trong số đó chỉ có một số được vua hạ cố nhiều lắm là hai, ba lần trong cả một đời làm cung phi. Sau khi vua băng hà, đội quân goá phụ đó vẫn phải duy trì quan hệ với người quá cố. Họ sống bên lăng mộ, trông nom dọn dẹp giữ gìn, hương khói trong lăng và sẽ không bao giờ tái giá, cũng không được rời khỏi lăng, sống như thế đến hàng chục năm nữa. Gần như suốt cuộc đời từ khi được tuyển vào cung mới ở độ tuổi mười sáu, mười bảy cho đến khi vua băng hà.
Tất cả nam cũng như nữ khi được nhận hay tuyển vào cung dù là phi tần, cung nữ, hay thái giám, họ đều vui vẻ chấp nhận số phận, xem như một vinh dự, một cơ may Trời cho. Khi rời bỏ quê hương họ được sự đảm bảo cái ăn cái mặc, hẳn sẽ có cuộc sống đầy đủ hơn ở nhà. Mặc dù vậy, khi đã được vào cung, cuộc sống sẽ phải chịu éo le nhiều mặt. Chẳng những phải chịu đựng nhiều đêm cô đơn mà khi cha mẹ đến thăm cũng phải đứng đằng xa hoặc trong trường hợp được phép lại gần cũng chỉ được trò chuyện qua bức màn sáo. Cho nên, đối với nhiều cô gái mới lớn, ngày lên đường vào cung vẫn là nỗi kinh hoàng khiếp đảm, đến mức nhiều người lớn thường doạ con gái của họ "sẽ đưa mày vào cung" coi như là phải chịu đựng một hình phạt. Trong trường hợp này, vua mang bộ mặt của con ngáo ộp. Vì một khi bước qua chiếc cửa ngăn vào hậu cung, cung phi không bao giờ được quay trở lại, không còn tổ ấm, không còn gia đình, không còn cả cuộc sống bình thường... Nếu sau một thời gian bị thải loại vì thất sủng hay do bệnh tật, không đủ sức khỏe, cung nữ trở về thường kết thúc cuộc đời của mình bằng cuộc sống tu hành trong chùa chiền hoặc nhà thờ. Tuy vậy các quan từ trọng thần đến những người có phẩm cấp thấp hơn hay những người dân bình thường, làm chủ gia đình ai cũng mong ước có con gái được tuyển vào cung, đem lại cho họ niềm hy vọng có nhiều lợi thế nhất là khi con gái sinh hoàng nam rồi trở thành hoàng quý phi hay Hoàng hậu.
Khi Bảo Đại về nước nắm quyền bính, hệ thống thứ bậc trong nội cung rất phức tạp. Các bà phi chính thất hoặc thứ phi, các bà phi tần sinh hoàng nam, các cung nữ được đặc ân được đưa lên hàng phi tần. Tóm lại trong nội cung đầy rẫy mưu toan tính toán để lên cấp hạng, phẩm trật...
Lấy vợ cho vua là một dịp phát sinh nhiều chuyện kình địch nhau. Các phe phái âm mưu chống chọi nhau để đẩy một cô gái vào cánh tay Nhà vua, sau đó bước lên long sàng.
Tập quán bao giờ cũng sống dai. Sau này khi Bảo Long, con trai Bảo Đại được tấn phong Đông cung Thái tử, nghĩa là hoàng tử kế nghiệp lúc đó mới 9-10 tuổi nhưng đã được giới thiệu với các gia đình các quan đại thần có con gái vào tuổi suýt soát để rồi khi lớn lên anh ta sẽ chấm làm vợ. Họ vẫn muốn thử vận may trong lúc chiến tranh đã bùng nổ, tiếng đại bác rền vang cùng với sức ép của phong trào cách mạng đang dâng lên.
Nhưng Bảo Đại hay ít nhất các cố vấn của ông cảm thấy mệt mỏi với các mưu toan, mánh khóe giành giật, chèn ép nhau giữa các bà Thái hậu, các bà phi tần, cung nữ, làm náo động cuộc sống hậu cung. Ông tiếp tục cuộc cải cách, lần này triệt để hơn nữa. Bãi bỏ chế độ cung phi, giải thể nội cung. Cho các bà cung phi và thị nữ trở về cuộc sống bình thường. Không tuyền cung phi mới. Dùng đầy tớ gái hầu hạ các bà Thái hậu (mẹ đẻ và mẹ đích của Bảo Đại). Vị Hoàng đế tân học còn gây nên một cuộc đảo lộn, một cơn choáng váng sẽ làm hại ông trong suốt thời gian trị vì. Năm 1934 người dân An Nam rất sửng sốt khi được biết ông quyết định cưới làm vợ một cô gái theo đạo Thiên chúa ngoan đạo, khăng khăng đòi chấm dứt hẳn chế độ cung phi của các triều đại trước để lại.
Chú thích:
(1) Ghi chép theo "Chuyện tình của các bà trong cung Nguyễn" của Nguyễn Đắc Xuân, Nhà xuất bản Thuận Hoá 1994 và "Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn" - Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1987.
(2) Một câu chuyện khác nhưng xem ra ít có thể tin là thật và cũng không thuyết phục được người dân kinh đô Huế. Hoàng thân Phụng hoá đã ăn ở lạnh nhạt với vợ vì cha mẹ vợ ông đã không giữ lời hứa trước khi cưới là mỗi tháng cấp cho một số tiền nhưng sau đó là không cho. Do đó người ta đồn thổi ông là "bất lực". Một hôm trong một cuộc cãi cọ trong gia đình nhà vợ để chứng minh là ông không bất lực như lời đồn, ông đã chứng tỏ sức mạnh đàn ông bằng cách ban ngay một trận mây mưa dồi dào cho một cô đầy tớ gái xinh đẹp và khỏe mạnh nhất (Phạm Khắc Hòe - Kề chuyện vua quan nhà Nguyễn. Nhà xuất bản Thuận Hoá).
(3) CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại. SPCE 376 (Phòng báo chí quân đội viễn chinh). Ám chỉ một tin đồn nói rằng Toàn quyền Pierrte Pasquier là cha thật sự của Bảo Đại. Một số người trong hoàng tộc ngày nay còn khẳng định không phải là ông Hường Đ. là cha đẻ của Bảo Đại mà là một người khác, có họ với các bà thái hậu mẹ đẻ hay mẹ kế của vua Khải Định).
(4) Các cung nữ cũng có thói quen làm các bó lá dâu treo trước cửa để lôi kéo dê đứng lại trước buồng mình.