Báu Vật Của Đời
Chương 23 :
Ngày đăng: 01:10 19/04/20
Tiếng nổ chưa dứt hẳn, vô số ngọn đuốc sáng rực đã từ tứ phía ập tới. Trung đoàn 17 thuộc trung đội 8 áo mưa màu đen, lưỡi lê lắp trên đầu súng, đi đều bước miệng hô khẩu hiệu, hùng dũng tiến vào. Cầm đuốc là những người dân quấn khăn mặt trắng trên đầu trong đó quá nửa là phụ nữ tóc cắt ngắn. Họ giơ cao ngọn đuốc, soi đường cho các binh sĩ trung đoàn 17. Đuốc làm bằng giẻ rách tẩm đầu, cháy như đình liệu. Chi đội Tư Mã nổ một loạt súng, các binh sĩ trung đoàn 17 đổ như ngã rạ, nhưng lập tức những người phía sau dồn lên lấp chỗ trống. Lại mấy chục quả lựu đạn ném tới, đất trời như vỡ tung. Tư Mã Khố kêu to:
- Đầu hàng thôi, anh em! Đừng làm hại đến dân!
Thế là súng vút ngổn ngang dưới đất, chỗ những ngọn đuốc chiếu sáng. Hai bàn tay đầy máu, Tư Mã Khố bế chị Chiêu Đệ lên, gọi to:
- Chiêu Đệ, Chiêu Đệ, tỉnh lại đi!
Một bàn tay run run nắm lấy cánh tay tôi. Tôi ngẩng lên, qua ánh lửa tôi nhìn thấy chị Niệm Đệ mặt trắng nhợt nằm dưới đất, trên người là mấy xác chết cụt chân cụt tay.
- Kim Đồng, Kim Đồng!... Chị gọi tôi một cách khó khăn - Em còn sống đấy chứ?
Chị vươn hai tay về phía tôi, cầu khẩn:
- Em yêu, kéo giúp chị ra!
Tay tôi toàn máu là máu. Tay chị cũng đầy máu, nắm lấy như nắm con lươn, mạnh một tí là tuột. Lúc này mọi người đều nằm bẹp dưới đất không ai dám đứng dậy. Luồng ánh sáng trên máy chiếu vẫn rọi trên màn bạc, cảnh ân oán của đôi nam nữ người Mỹ đã đến hồi cao trào, người đàn bà giơ thật cao thanh đao trước mặt người đàn ông đang ngủ. Bác-bit đứng bên máy chiếu sốt ruột gọi:
- Niệm Đệ Niệm Đệ, em ở đâu?
- Em ở đây, Bác-bit, em ở đây!
Chị Sáu giơ một tay về phía Bác-bit của chị. Chị thều.. thào trong miệng, nước mắt nước mũi đầy mặt. Bác-bit. gắng gượng đi về phía chị Niệm Đệ, anh ta đi rất khó khăn, y hệt con ngựa bị lún trong bùn lầy.
- Đứng lại - Một tiếng gầm vang lên. Đoàng, một tiếng súng bắn chỉ thiên. Không được mất trật tự! Bác-bit như bị chém ngang lưng, đổ gục trên mặt đất.
Tư Mã Lương không biết từ đâu bò tới, tay trái rách thành một cái lỗ, máu me đầy mặt, tóc và cổ. Nó kéo tôi dậy, dùng bàn tay rắn rỏi sờ nắn khắp người tôi.
- Cậu còn nguyên vẹn cả, tay còn, chân còn - nó nói.
Nó cúi xuống lôi những cái xác nằm đè lên chị Sáu, đỡ chị dậy. Bộ quần áo chị Sáu dính đầy máu.
Dưới trời mưa nặng hạt như những mũi tên, chúng tôi bị dồn vào căn nhà để cối xay gió. Đây là công trình kiến trúc to nhất của thôn trấn. Giờ đây, nó bị biến thành trại tạm giam. Giờ nghĩ lại, khi đó chúng tôi có nhiều cơ hội trốn thoát, vì rằng mưa rào dập tắt nhanh chóng những cây đuốc trong tay dân phu của trung đoàn 17, các binh sĩ trong trung đoàn bị mưa quất không mở được mắt, chúng loạng choạng, lo thân còn chưa xong. ở đầu hàng quân chỉ có ánh sáng của hai cây đèn pin. Vậy mà không một ai chạy trốn. Kẻ bắt người và người bị bắt cùng lúng túng như nhau. Khi đến gần cánh cổng nhà xay, các binh sĩ của trung đoàn 17 tranh nhau vào trước, vượt cả chúng tôi.
Nhà xay rung lên dưới mưa. Qua ánh chớp, tôi nhìn thấy nước đổ như trút qua kẽ hở của những tấm tôn lợp. Nhìn ra ngoài hiên, dòng nước chảy cuồn cuộn, từ rãnh thoát nước trước cửa đến ngoài đường, trắng xóa một màu. Trong quãng đồng từ sân phơi đến nhà xay, tôi bị lạc chị Sáu và Tư Mã Lương. Trước mặt tôi là tên lính của trung đoàn 17, anh ta lộ xỉ, môi không che kín lợi, răng trắng nhởn như răng thỏ lộ hết ra ngoài. Cặp mắt màu xám của anh ta bị phủ một lớp hơi nước. Tôi cảm thấy nỗi tuyệt vọng và sợ hãi khiến tim anh ta như bị sâu bọ gậm nhấm. Sau một ánh chớp, anh ta hắt hơi một cái rõ kêu trong bóng tối, phả vào mặt tôi mùi thuốc lá lẫn mùi củ cải. Mũi tôi vừa cay vừa ngứa. Tiếng hắt hơi râm ran trong bóng tôi. Tôi muốn tìm chị Sáu và Tư Mã Lương, nhưng tôi không dám gọi, chỉ dựa vào tia chớp lóe lên trong khoảnh khắc để tìm trong tiếng sấm như bắt lấy hồn phách người ta và mũi thì ngửi toàn mùi lưu huỳnh. Tôi trông thấy sau lưng một tên lính bé nhỏ, là bộ mặt gầy guộc của thằng Gật. Hắn trông như quỉ nhập tràng vừa chui ra từ trong mộ, sắc mặt tím tái, tóc bết lại như hai cái bàn chải, quần áo dán chặt vào người, cổ dài ngoẵng, yết hầu như một quả trứng gà, xương ngực lồi lên, mặt hắn như đốm lửa lân tinh.
Khi trời gần sáng thì ngớt mưa, những tiếng ầm ầm trên mái tôn đã chuyển sang tiếng tí tách của giọt nước lọt qua kẽ hở. Sấm chớp giảm, màu sắc từ xanh lét đáng sợ chuyển sang màu vàng trắng ấm áp. Tiếng sấm xa dần, gió thổi theo hướng đông bắc, lạnh thấu xương, mọi người áp sát nhau, bất kể ai. Phụ nữ và trẻ con khóc trong bóng tối. Tôi cảm thấy như kiến bò ngược từ dưới chân lên, bụng dưới đau quặn, rồi toàn thân như một tảng băng. Giả dụ khi ấy có ai muốn ra khỏi nhà xay, chắc chắn không bị ngăn trở. Nhưng không có người nào bỏ trốn.
Sau đó, ngoài cổng có người đi tới. Trong trạng thái tê dại, tôi dựa vào cái mông đít của ai đó, người ấy cũng dựa vào tôi. Tiếng lội nước oàm oạp bên ngoài, tiếp đó mấy luồng ánh sáng vàng vọt rọi vào. Vài người trùm áo mưa chỉ hở hai con mắt hiện ra trước cổng, gợi vào trong:
- Các binh sĩ trung đoàn 17 ra hết bên ngoài chấn chỉnh đội ngũ.
Tiếng gọi khàn khàn, không phải giọng của anh ta. Giọng anh ta vốn oang oang, đầy kích động. Tôi nhận ra ngay một trong những người mặc áo mưa đó chính là Lỗ Lập Nhân, đại đội trướng kiêm chính ủy đại đội bộc phá. Cái tin anh ta thăng cấp, gia nhập trung đoàn 17, tôi đã có nghe hồi mùa xuân, bây giờ thì đã rõ ràng.
- Mau lên! - Lỗ Lập Nhân nói - Các đại đội đã nhận xong phòng ở, các đồng chí về ngay để ngâm chân, uống nước gừng!
Các binh sĩ trung đoàn 17 chen nhau ra khỏi nhà xay. Họ xếp hàng ngoài đường, vài người có vẻ cán bộ, tay cầm đèn bão, tranh nhau hô:
- Đại đội ba theo tôi! Đại đội bảy theo tôi! Bộ phận trục thuộc trung đoàn theo tôi!
Các binh sĩ lội bì bõm đi theo những chiếc đèn bão. Mười mấy binh sĩ mặc áo mưa, bồng súng bước tới, người trực ban báo cáo:
- Báo cáo trung đoàn trưởng, trung đội một, đại đội cảnh vệ đến canh gác tù binh.
Lỗ Lập Nhân giơ tay chào lại, nói:
- Canh gác cẩn mật, không cho đứa nào trốn thoát. Sẽ điểm danh khi trời sáng. Nếu tôi không lầm thì... - Hắn ngó vào trong nhà xay - Ông bạn Tư Mã Khố cũng trong đó.
- Tiên sư nhà mày! - Tư Mã Khố từ sau chiếc cối xay lớn chửi vọng ra - Thằng Tưởng Lập Nhân ti tiện kia, ông ở đây!
Lỗ Lập Nhân cười:
- Hẹn gặp lại khi trời sáng!
Lỗ Lập Nhân vội vã bỏ đi. Tay trung đội trưởng cảnh vệ to như hộ pháp đứng dưới ánh đèn, nói vào trong:
- Tôi biết có người có súng lục. Tôi ở chỗ sáng, các người ở trong tối, có thể bắn trúng tôi? Nhưng tôi khuyên các người hãy bỏ ý nghĩ đó đi, vì nếu có bắn thì chỉ bắn ngã một mình tôi, nhưng... - Anh ta quay lại chỉ đám binh sĩ - mười mấy băng tiểu liên này xả vào thì ngã xuống không chỉ có một. Chúng tôi ưu đãi tù binh, trời sáng sẽ phân loại không có tội và nếu tự nguyện tham gia đội ngũ, chúng tôi hoan nghênh. Người nào không muốn tham gia, chúng tôi cấp tiền lộ phí, cho về với gia đình.
Trong nhà xay không ai nói gì, chỉ có tiếng nước chảy ào ào. Đại đội trưởng chỉ huy đám lính kéo cánh cổng đã biến dạng, đóng cổng lại. ánh sáng vàng vọt của cây đèn bão lọt qua khe cửa, chiếu vào trong.
Các binh sĩ của trung đoàn 17 rút hết đi, trong nhà xay dễ thở hơn. Tôi mò mẫm lần đến chỗ có tiếng nói của Tư Mã Khố, vấp phải những cẳng chân nóng như lửa, nghe thấy những tiếng rên hừ hừ. Khu nhà xay này là kiệt tác của anh em Tư Mã Khố. Sau khi khánh thành, nhà xay không xay được một bao bột nào. Những cánh quạt chỉ một đêm giông bão đã gãy sạch, còn trơ lại cái trụ với những cánh nứt gãy, bốn mùa kêu kèn kẹt. Khu nhà xay rộng đến mức có thể làm nơi đua ngựa, mười hai chiếc cối xay như mười hai quả núi nhỏ ngồi chồm hổm trên bệ. Chiều qua tôi cùng Tư Mã Lương vừa đến quan sát nơi này. Tư Mã Lương nói nó sẽ đề nghị bố nó sửa chữa nhà xay thành rạp chiếu bóng. Khi bước chân vào trong nhà xay, tôi bất chợt rừng mình. Trong khu nhà rộng thênh thang có một đàn chuột hung tợn xông thẳng vào chúng tôi. Khi chỉ còn khoảng hai bước chân, chúng dùng lại. Một con chuột già lông trắng mắt đỏ, giơ những vuốt chân đẹp như điêu khắc băng ngọc thạch, vuốt râu. Cặp mắt ti hí của nó đảo như chớp. Sau lưng nó, mươi mấy con chuột xếp thành hình cánh cung, mắt vằn lên, chuẩn bị xông lên cắn xé. Tôi hoảng sợ lùi lại, đầu như muốn vỡ ra, lưng toát mồ hôi lạnh. Tư Mã Lương đứng chắn trước mặt tôi, nó chỉ đứng đến cằm tôi. Nó cúi xuống, rồi sau đó nó ngồi xổm, chiếu tướng con chuột già. Con chuột cũng không chịu lép, nó không vuốt râu nữa, ngồi chồm hổm như chó, cặp râu rung rung. Con chuột già nghĩ gì? Tư Mã Lương, thằng nhỏ tôi vốn không ưa rồi dấn dà trở thành thân cận của tôi, nghĩ gì? Chỉ đơn thuần là cuộc đấu giữa hai cặp mắt hay sao? Nó và con chuột đang tiến hành một cuộc đọ sức về tinh thần, chĩa mũi nhọn vào nhau xem ai nhụt trước. Tôi hình như nghe thấy con chuột nói rằng, đây là địa bàn của chúng tôi, các ông không nên thâm nhập. Tôi nghe Tư Mã Lương nói: Đây là nhà của ta, do bác ta và cha ta xây dựng nên. Ta về đây tức là về nhà, ta là chủ của ngôi nhà này. Chuột già nói: Được làm vua, thua làm giặc! Tư Mã Lương nói: Yếu trâu còn hơn khỏe bò. Chuột già nói: Ông là người chứ không phải trâu. Tư Mã Lương nói: Kiếp trước ta là mèo, nặng tám ký, mèo đực. Chuột già nói: Ông làm sao cho tôi tin kiếp trước của ông là mèo? Tư Mã Lương chống hai tay xuống đất, trợn mắt há miệng kêu meo meo. Tiếng dội lại meo meo. Chuột già kinh hoàng hạ hai chân trước xuống định bỏ chạy. Tư Mã Lương nhanh nhẹn vồ lấy con chuột quật chết tươi trong khi nó chưa kịp cắn. Những con còn lại chạy tán loạn. Tôi bắt chước Tư Mã Lương, vừa kêu meo meo, vừa đuổi đánh lũ chuột. Trong chớp mắt, lũ chuột chạy mất dạng. Tư Mã Lương cười, ngoảnh lại nhìn tôi. Trời ơi, mắt nó giống hệt mắt mèo, lóe lên những tia dữ dằn trong ánh hoàng hôn. Nó quẳng con chuột già vào lỗ cối xay. Hai chúng tôi mỗi thằng bám một tai cối, hết sức bình sinh mà đẩy nhưng cái cối không nhúc nhích, đành bỏ cuộc. Chúng tôi đi vòng một lượt các cối, cái nào cũng tốt. Tư Mã Lương nói:
- Cậu Kim Đồng, ta chung nhau mở nhà xay, cậu thấy thế nào?
Tôi không biết trả lời nó ra sao. Ngoại trừ vú và sữa, tôi chẳng thấy cái gì có ích cho tôi.
Buổi chiều hôm đó thật huy hoàng, ánh nắng xuyên qua khe hở và các ô cửa sổ, chiếu trên gạch lát nền men xanh. Trên nền có cứt chuột. Trong cứt chuột chắc chắn là có cứt dơi, vì rằng trên xà nhà treo lủng cẳng những con dơi cánh dỏ. Một con dơi quá to bằng chiếc đấu đang bò trên vì kèo. Tiếng kêu của nó tương xứng với cơ thể nó, lảnh lót và kéo dài, khiến tôi sởn gai ốc. Chính giữa cối đều đục một lỗ tròn bằng miệng bát, là đoạn gỗ sam chọc thẳng qua nóc chĩa lên trời, đầu đoạn gỗ lắp bánh xe gió. Tư Mã Khố và Tư Mã Đình cho rằng, chỉ cần có gió là những cánh trên bánh xe chuyển động, bánh xe sẽ chuyển theo, khúc gỗ sam tất nhiên cũng chuyển động. Nhưng thực tế đã nghiền nát ảo tưởng của anh em nhà Tư Mã. Tôi đi vòng quanh cối để tìm Tư Mã Lương, trông thấy mấy con chuột trèo lên trèo xuống thoăn thoắt chỗ cột gỗ sam. Trên thớt trên của cối có người đang ngồi. Đó là Tư Mã Lương, ánh mắt sáng rực. Nó thò bàn tay lạnh ngắt xuống năm lấy tay tôi. Được nó giúp sức, tôi đặt chân lên tai cối, trèo lên đỉnh thớt trên. Mặt thớt trên ẩm ướt, nước đầy lỗ.
- Cậu Kim Đồng, cậu còn nhớ con chuột già không
Nó hỏi tôi, vẻ thần bí. Tôi gật đầu trong bóng tối.
- Nó ở đây - Tư Mã Lương nói nhỏ - Cháu định lột da nó để bà ngoại may cái chụp tai chống lạnh!
Một tia chớp yếu ớt lóe lên từ phương nam xa xôi, trong nhà xay rạng lên một thoáng. Tôi trông thấy con chuột trong tay Tư Mã Lương ướt đẫm nước, cái đuôi nhỏ và dài buông thõng một cách đáng ghét.
- Vứt nó đi! - tôi bảo.
- Sao lại vứt? - nó hỏi lại, giọng bất mãn.
- Kinh khủng, lẽ nào mày không thấy lợm giọng hay sao? - tôi nói.
- Chị Năm tha cho chúng em! Các người đã giết chết chị Hai, chẳng lẽ định giết hết chúng tôi hay sao?
Lúc này, Tư Mã Khố bế xác chị Chiêu Đệ, cười như điên loạn, từ trong nhà xay đi ra. Nhân lúc binh sĩ của anh ta ùa ra cổng, anh ta lẳng lặng ở lại trong nhà. Con người xưa nay vẫn ăn mặc tươm tất, đánh bóng từng cái cúc áo vậy mà chỉ qua một đêm đã khác hẳn, mặt hằn những vết nhăn, mắt thâm quầng, tóc đốm bạc. Anh ta quì trước mặt mẹ, hai tay nâng cái xác của chị Hai đã cạn máu.
Miệng mẹ càng méo xệch đi, miệng run lên không nói được một câu cho trọn nghĩa, nước mắt đầm đìa. Mẹ giơ tay sờ trán chị Hai, tay kia đõ lấy cằm nói:
- Chiêu Đệ, con của mẹ! Người là do con chọn, con đi đường của con, mẹ không ngăn được con, cũng không cứu nổi con, các con đều... thôi thì phó mặc cho trời!
Tư Mã Khố đặt thi thể chị Hai xuống đất, tiến về phía Lỗ Lập Nhân đang đi tới, xung quanh là mười mấy vệ binh. Hai người còn cách nhau vài bước chân thì dừng lại, bốn mắt nhìn nhau tóe lửa, hồi lâu mà vẫn không bên nào chịu thua bên nào. Lỗ Lập Nhân cười khan ba tiếng:
- Ha ha, ha ha, ha ha ha!
Tư Mã Khố cũng cười nhạt ba tiếng: - Hà hà, hà hà, hà hà hà?
- Tư Mã huynh, xin chớ trách? Chưa đầy một năm kể từ khi huynh đuổi ta ra khỏi vùng này, không ngờ hôm nay số phận đó lại rơi trên đầu huynh!
Tư Mã Khố nói:
- Vay nóng trả vội thôi, có điều, huynh phải trả một giá quá đắt đấy!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Về chuyện quí phu nhân bất hạnh qua đời, ta cũng rất đau xót, nhưng biết làm thế nào! Cách mạng như mổ cái ung nhọt, tránh sao cắt bỏ ít da thịt! Nhưng ta không thể vì sợ phương hại đến da thịt mà không cắt bỏ cái ung, huynh nên hiểu điều đó!
Tư Mã Khố nói:
- Đừng nhiều lời nữa, cho ta chết quách cho rồi!
Lỗ Lập Nhân nói:
- Chúng tôi không thể xử tử huynh một cách đơn giản như vậy.
Tư Mã Khố nói:
- Vậy thì xin lỗi, ta tự giải quyết vậy. Anh ta móc khẩu súng mạ bạc ra, lên cò, quay lại nhìn mẹ nói:
- Thưa nhạc mẫu, tôi đã trả thù hộ bà! - Rồi đưa súng lên thái dương.
Lỗ Lập Nhân cười lớn:
- Rốt cuộc cũng chỉ là thằng hủ nho? Tự sát hả, đồ hèn?
Tay cầm súng của Tư Mã Khố run bắn lên.
Tư Mã Lương gào to: - Bố ơi!
Tư Mã Khố ngoảnh nhìn con trai một thoáng, tay cầm súng từ từ buông xuôi. Anh ta mỉm cười tự giễu mình, quăng khẩu súng cho Lỗ Lập Nhân, nói:
- Cầm lấy!
Lỗ Lập Nhân giơ tay bắt lấy khẩu súng tung trong tay, nói
- Đây là đồ chơi của phụ nữ - Hắn ném khẩu súng cho người ở phía sau một cách khinh miệt, rồi dận đôi giày da sưng phồng vì nước mưa và bùn, nói: - Quả thực khi đã nộp súng, ta không có quyển bắn chết huynh nữa. Cấp trên của ta sẽ chọn cho huynh một con đường, hoặc lên trời, hoặc xuống địa ngục!
Tư Mã Khố lắc đầu, nói:
- Ngươi nói không đúng rồi, thiên đường hay địa ngục đều không dành cho chúng ta. Chỗ của ta là khoảng giữa thiên đường và địa ngục. Rồi thì ngươi cũng như ta thôi!
Lỗ Lập Nhân bảo người đứng bên:
- Giải hắn đi!
Vệ binh bước tới, chĩa súng vào Tư Mã Khố và Bác-bít, nói:
- Đi!
Tư Mã Khố gọi Bác-bít:
- Đi thôi! Chúng có thể giết tôi một trăm lần, nhưng không dám đụng đến cái lông chân của anh đâu?
Bác-bít dìu chị Sáu đến bên Tư Mã Khố. Lỗ Lập Nhân nói:
- Phu nhân Bác-bít có thể ở lại.
Chị Sáu nói:
- Đoàn trưởng Lỗ, ông hãy thể tình mẹ tôi đã nuôi nấng Lỗ Thắng Lợi mà tha cho vợ chồng tôi!
Lỗ Lập Nhân lấy tay đẩy cái kính gãy gọng trên mũi, nói với mẹ:
- Mẹ nên khuyên cô ấy?
Mẹ kiên quyết lắc đầu, ngồi xuống, bảo tôi và Tư Mã Lương:
- Đặt lên lưng giúp ta?
Tôi và Tư Mã Lương khênh thi thể chị Chiêu Đệ đặt lên lưng mẹ.
Mẹ cõng chị Hai trên lưng, chân trần bước đi trong bùn trở về nhà. Tôi và Tư Mã Lương, đứa bên trái đứa bên phải đỡ lấy hai chân lạnh cúng của chị Hai để ẹ đỡ nặng.