Báu Vật Của Đời
Chương 54 :
Ngày đăng: 01:10 19/04/20
Năm thứ 26 triều Quang Tự đời Thanh, tức năm 1900. Một buổi sáng mùa thu sương mù dày đặc, quân Đức được viên tri huyện Cao Mật Lý Quế Phong dẫn đường, bao vây thôn Sa Oa tận cùng phía tây nam. Hôm ấy mẹ anh vừa tròn sáu tháng tuổi, chưa biết đi nhưng đã biết bò, tên cúng cơm là Toàn Nhi.
Ông ngoại anh Lỗ Ngũ, có biệt hiệu là Lỗ Quậy, tinh thông võ nghệ, đi lại nhanh nhẹn như thanh niên. Ông dậy rất sớm, luyện dăm đường quyền cước trong mảnh sân còn đẫm sương đêm, rồi quảy đôi thùng sắt tây, của hiếm lúc bấy giờ, đi lấy nước ăn ở giếng nước ngọt phía nam thôn. Móc sắt trên đầu đòn gánh cọ vào quai thùng, phát ra những tiếng lanh canh vui tai. Trên đường đã có nhiều người đi lại, người thì nhặt phân chó, người guồng nước tưới rau cải, cũng có những người quảy thùng gỗ, đội lọ đi lấy nước ăn. Từ lò luyện võ của Đỗ Giải Nguyên vang lên những tiếng hự hự của từng cặp đối công. Đỗ Giải Nguyên là cử nhân võ, cao to trắng trẻo, nhưng bà vợ thì lại đen nhẻm, rỗ chằng rỗ chịt. Đồn rằng, sau khi trúng tuyển, ông từng có ý định bỏ vợ, nhưng một đêm ông mơ thấy một con chim đại bàng lông đốm phủ một bên cánh lên người ông. Tỉnh dậy, ông thấy cánh tay của bà vợ mặt rỗ vắt trên ngực mình. Đỗ Giải Nguyên hiểu ra đó là lời mách của thần linh. Vợ mình tuy mặt mũi xấu xí nhưng đó là phượng hoàng đầu thai vào bà, vậy là ông thôi ý nghĩ bỏ vợ. Đỗ Giải Nguyên võ nghệ siêu quần, có thể gánh hai thùng nước đầy đứng trên mông ngựa phi như bay mà không sánh ra ngoài một giọt. Đến điểm dừng, ông vẫn gánh nguyên hai thùng nước mà nhảy xuống không một tiếng động, thân thế còn nhẹ hơn cục bông, mặt không đỏi sắc, tim không đập mạnh, hai thùng nước vẫn đầy nguyên, không mất một giọt, khiến những tên vô lại định khiêu khích ông bỏ chạy tán loạn.
Ông ngoại đến bên giếng liền ngửi thấy một mùi thơm ngát từ dưới giếng bốc lên. Cái giếng này thông với biển Đông trời cạn đến mấy cũng không hết nước, thường có cá lớn xuất hiện, được gọi là cá thần. Có nhiều truyền thuyết về giếng này, nước giếng ngọt lạ lùng. Cả thôn đều dùng nước ở giếng này và bảo vệ giống như bảo vệ con ngươi của mắt. Ông ngoại nhìn xuống giếng, thấy một bông sen trắng to bằng miệng bát, những cánh hoa trong suốt như bằng mã não, chính giữa là nhụy đỏ như lửa. Ông ngoại vô cùng ngạc nhiên, vội rút lui, sợ làm kinh động bông hoa kỳ lạ. Ông quảy đôi thùng không đi về bắt gặp Đỗ Lê, người ở của nhà Đỗ Giải Nguyên. Đỗ Lê vẫn còn ngái ngủ, ngáp dài hỏi:
- Ông Ngũ Quậy, ông dậy sớm thế!
Ông ngoại ngăn Đỗ Lê:
- Người anh em, đừng đến chỗ giếng nước nữa!
Đỗ Lê hỏi: - Sao vậy?
Ông ngoại nói:
- Trong giếng có một bông sen trắng!
Đỗ Lê nói:
- Sen trắng chứ sen đỏ thì tôi cũng phải lấy nước đem về. Bây giờ về tay không, ông chủ đâu có chịu!
Đỗ Lê gánh đôi thùng gỗ nặng, chệnh choạng đi tới giếng nước.
Ông ngoại chạy dón đầu anh ta, bảo:
Vợ ông nói:
- Bình Giai, xuống đi ông?
Ông kéo hồ lô thuốc dính đầy máu, nói:
- Cho chúng một phát nữa là hòa vốn!
Bà vợ nói:
- Chúng chết một loạt rồi, hòa vốn rồi! Bà rướn người lên để kéo ông nên bị một phát đạn vào cổ, người giật lên một cái rồi gục xuống, máu miệng chảy ra. Hỏng rồi, phượng hoàng bị bắn chết rồi, ông nghĩ. Khuôn mặt rỗ của bà vợ giật giật, đôi mắt lá dăm lóe lên một tia sáng lạnh. Đỗ Giải Nguyên dốc toàn bộ thuốc súng vào nòng pháo. Ông nằm thẳng để tránh đạn vì cái gờ mái nhà quá thấp, dùng cây thông nòng lèn chặt thuốc. Một anh làm công khác đưa cho ông hồ lô đụng đạn. Ông trút đạn vào nòng kêu lạo xạo, lại lèn chặt. Anh làm công đã lắp xong ngòi dẫn, đưa nén hương cho ông, nói:
- Thưa ông, ông điểm hỏa đi!
- Oàng!
Chùm đạn nã thẳng vào bức tường chắn phía trước, tiếng rào rào như có luồng gió thổi qua. Bọn Đức nấp trong ngõ hẻm, không tên nào bị thương, nhưng bị uy lực của khẩu pháo tự tạo làm chúng kinh hồn táng đỏm. Bức tường bị bắn nát một vùng rộng bằng cái thớt cối xay bột, đạn găm rất sâu trong tường. Phát dạn này mà bắn trúng người thì chắc chắn là không còn một mảnh. Đỗ Giải Nguyên loạng choạng đứng dậy, một loạt đạn hất ông xuống phía dưới nhà kho. Lúc này, hai khẩu pháo của quân Đức cũng nhằm vào ngôi nhà của Đỗ Giải Nguyên liên tiếp nhả đạn. Pháo của bọn Đức bắn đạn có cát tút đồng, tiếng nổ đanh, sắc, ù cả tai. Đạn rơi trên nóc nhà nổ ùng oàng, gạch ngói bay tứ tung, khói dựng lên từng cột.
Bọn Đức đã phá được cổng nhà ông Ngũ Quậy. Trước tiên, chúng bắn bừa vào trong mấy phát, không động tĩnh. Ông Ngũ Quậy nấp sau cánh cổng, im lặng chờ đợi. Một tên Đức cầm khẩu khai hậu đã lắp lê, ló đầu vào trong như con gà trống. ống quần của nó rất chật, hai đầu gối lồi lên như hai chiếc màn thầu. Vạt áo trước, hai hàng cúc đồng sáng loáng. Ông Ngũ Quậy vẫn ngồi yên. Tên lính Đức ngoảnh lại vẫy bọn lính, cặp mắt xanh, cái mũi đỏ và mái tóc bạch kim ló ra dưới vành mũ, hiện rõ mồn một dưới mắt ông. Tên lính Đức cũng đã trông thấy người nấp sau cánh cổng, đen nhẻm như cây tháp bằng sắt. Hắn định giương súng lên nhưng đã muộn. Ngũ Quậy nhảy vọt ra, người chưa tới nhưng mũi dáo nhọn hoắt đã đâm ngập bụng tên lính. Nửa người trên của tên lính đè lên cán dáo. Khi Ngũ Quậy rút mũi dáo ra, ông cảm thấy một luồng gió lạnh từ phía sau xuyên thẳng vào lưng. Hai tay tê dại, ông buông ngọn dáo, khó nhọc quay người lại thì hai tên lính Đức đã chĩa súng vào ngực ông. Ông giang tay định xông tới thì từ nơi sâu thăm trong đầu vang lên một tiếng bốp như có cái gì đó bị gãy mắt tối sầm và mơ hồ cảm thấy một chất dính như hồ chảy xuống mặt. Ông gục xuống.
Bọn Đức vừa bắn vừa xông vào trong nhà, nhìn thấy người đàn bà trắng trẻo đã treo cổ tự vẫn dưới xà nhà, hai bàn chân nhọn chỉ có ngón cái là có móng sáng bóng, khiến chúng hết sức kinh ngạc.
Ngày hôm sau, cô và dượng Vu Bàn Vả nghe tin chạy tới, cứu được mẹ trong chum bột. Người mẹ bột bám đầy chỉ còn thoi thóp. Bà cô móc bột trong miệng mẹ ra, phát vào mông hồi lâu mẹ mới bật khóc, tiếng khóc khản đặc.