Các Anh Hùng Của Đỉnh Olympus Tập 3: Dấu Hiệu Athena
Chương 22 : Leo 2
Ngày đăng: 17:06 19/04/20
HỌ ĐỨNG TRONG SÂN TRONG CỦA một KHU NHÀ KHÉP KÍN, như kiểu một tu viện. Những bức tường gạch đỏ được cây leo phủ kín. Những cây mộc lan mọc nứt cả gạch lát. Mặt trời chiếu ánh nắng chói chang và độ ẩm thì khoảng hai trăm phần trăm, thậm chí còn ẩm ướt hơn cả Houston. Từ đâu đó gần đấy, Leo ngửi thấy mùi cá đang rán. trên đầu, màn mây thấp và xám xịt, vằn vện như lông hổ.
Khoảnh sân lớn cỡ một sân bóng rổ. một quả bóng đá cũ xì hơi nằm lăn lóc một góc, dưới chân một bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh.
Dọc theo những tòa nhà, các cửa sổ đều mở. Leo có thể thấy thấp thoáng những cử động bên trong, nhưng mọi thứ lại im lặng một cách kì quái. Cậu không thấy dấu hiệu gì của máy điều hòa không khí, có nghĩa là bên trong chắc phải nóng đến cả nghìn độ.
“Bọn mình đang ở chỗ nào đây?” Cậu hỏi.
“Trường cũ của em,” Hazel đứng bên cạnh cậu nói. “Học viện Thánh Agnes Cho Trẻ Em Da Màu Và Da Đỏ.”
“Tên kiểu gì–?”
Cậu quay sang Hazel và giật mình kêu lên. cô là một bóng ma–chỉ là một cái bóng mờ sương trong không khí ẩm thấp. Leo nhìn xuống và nhận ra thân thể của chính cậu cũng biến thành sương khói.
Mọi thứ chung quanh cậu đều có vẻ rõ nét và rất thật, nhưng cậu lại là một linh hồn. Sau vụ bị eidolon nhập ba ngày trước, cậu không khoái cái cảm giác này tẹo nào.
Trước khi cậu kịp thắc mắc thêm, một hồi chuông vang lên từ bên trong: không phải tiếng chuông điện hiện đại, mà là âm thanh kiểu xưa của một chiếc búa gõ lên kim loại.
“Đây là một kí ức,” Hazel nói, “vậy nên sẽ không có ai trông thấy bọn mình cả. Nhìn kìa, bọn em đến rồi.”
“Bọn em á?”
Từ khắp các cánh cửa, từng tá từng tá học sinh ùa ra sân, hò hét và xô đẩy nhau. Hầu hết trong số chúng mang dòng máu Mĩ-Phi, với một nhúm rải rác những đứa trông như trẻ con Mĩ-Latin, bé bằng trẻ con mẫu giáo cũng có mà lớn cỡ học sinh cấp ba cũng có. Leo có thể nhận ra đây là quá khứ, vì tất cả đám con gái đều mặc váy và đi giày da cài khóa[1]. Đám con trai thì mặc áo sơ-mi trắng có cổ và quần tây có dây đeo. Nhiều đứa đội mũ lưỡi trai giống mũ của mấy tay đua ngựa[2]. Vài đứa mang theo đồ ăn trưa. Nhiều đứa khác thì không. Quần áo của bọn chúng sạch sẽ, nhưng sờn rách và bạc màu. Vài đứa có chỗ rách ở quần chỗ đầu gối hay giày bị há mõm.
Vài đứa con gái bắt đầu chơi nhảy dây bằng một đoạn dây phơi quần áo. Mấy đứa lớn hơn thì chuyền qua chuyền lại một quả bóng chày cũ mèm. Những đứa mang đồ ăn trưa thì ngồi túm tụm vừa ăn vừa tán dóc.
Chẳng ai để ý thấy Ma Hazel hay Ma Leo.
Rồi Hazel – Hazel của quá khứ – xuống sân. Leo nhận ra cô chẳng khó khăn gì, dù trông cô trẻ hơn bây giờ khoảng hai tuổi. Tóc cô được kẹp lại thành một túm. Đôi mắt vàng của cô bồn chồn đảo quanh khoảnh sân. cô mặc một chiếc váy tối màu, không giống những đứa con gái khác mặc váy vải bông trắng hay màu nhạt in hoa, vì vậy cô nổi bật như một người khóc than giữa một đám cưới vậy.
cô cầm một túi đựng đồ ăn trưa bằng vải bạt và đi men theo bức tường, như đang cố hết sức để không bị chú ý.
Cách đó không hiệu quả. một thằng con trai kêu lên, “Đồ phù thủy!” Nó ì ạch đi đến chỗ cô, dồn cô vào một góc. Đứa con trai có lẽ mười bốn hay mười chín tuổi. Khó mà nói rõ được vì nó cực kì đô con, dễ chừng là đứa to xác nhất trong sân. Leo nhận thấy nó đã bị cản lại mấy lần. Đứa con trai mặc một cái áo sơ mi bẩn thỉu có màu của một cái giẻ lau dầu máy, quần sợi len mòn xơ (với cái nóng như thế này thì chẳng dễ chịu gì), và chẳng giày tất gì sất. Có lẽ các giáo viên quá kinh hãi để mà bắt thằng này đi giày, hay có lẽ nó chẳng có đôi giày nào.
“Đấy là Rufus,” Ma Hazel nói đầy vẻ chán ghét.
“Nghiêm túc đó hả? không đời nào mà thằng đó lại tên là Rufus.” Leo nói.
“đi nào,” Ma Hazel nói. cô lướt về phía cuộc đối đầu. Leo lướt theo. Cậu không quen lướt đi, nhưng cậu từng đi xe Segway[3] một lần và nó cũng tương tự như vậy.
Thằng nhóc đô con Rufus có một khuôn mặt bèn bẹt, như thể nó dành phần lớn thời gian cắm mặt hôn vỉa hè. Tóc trên đỉnh đầu nó cũng được cắt bằng, đến nỗi máy bay mini có thể dùng chỏm đầu nó làm đường băng hạ cánh.
Rufus chìa tay ra. “Bữa trưa.”
Hazel trong quá khứ không nói gì. cô đưa cái túi vải bạt ra như thể đó là chuyện cơm bữa hàng ngày.
Mấy đứa con gái lớn xúm đến xem trò vui. một đứa cười khúc khích với Rufus. “Mày không muốn ăn thứ đấy đâu,” con bé cảnh báo. “Dám có độc trong đó lắm.”
“Mày nói đúng,” Rufus nói. “Con mẹ phù thủy của mày làm cái này hả, Levesque?”
“Mẹ không phải phù thủy,” Hazel lẩm bẩm.
Rufus ném cái túi xuống đất và dẫm lên nó, nghiền nát các thứ bên trong bằng bàn chân trần của nó. “Trả mày đấy. Nhưng tao muốn một viên kim cương. Tao nghe nói mẹ yêu của mày biến được ra mấy thứ đó từ không khí. Đưa tao một viên kim cương.”
“Tôi không có kim cương,” Hazel nói. “Cút đi.”
Rufus co tay lại thành nắm đấm. Leo đã ở nhiều trường học và nhà nhận nuôi khắc nghiệt đủ để nhận biết khi nào chuyện sắp thành ra tồi tệ. Cậu muốn bước tới và giúp Hazel, nhưng cậu là một bóng ma. Hơn nữa, tất cả những chuyện này đã xảy ra từ vài chục năm trước rồi.
“nói với cô ấy là ta xin lỗi vì đã bán viên kim cương đi, nhé?” Sammy nói. “Ta đã thất hứa. Lúc cô ấy biến mất ở Alaska…à, đã lâu lắm rồi, cuối cùng ta cũng dùng viên kim cương đó, chuyển đến Texas như ta vẫn từng mơ. Ta mở xưởng cơ khí của ta. Tạo dựng gia đình của ta! một cuộc đời tốt đẹp, nhưng Hazel đã đúng. Viên kim cương mang một lời nguyền. Ta không bao giờ được trông thấy cô ấy nữa.”
“Ôi, Sammy,” Hazel nói. “không, lời nguyền không phải thứ ngăn trở mình. Mình đãmuốn quay trở lại. Mình đã chết!”
Ông lão chẳng có vẻ gì là đã nghe thấy. Ông cười với đứa bé, và hôn đầu thằng bé. “Ta chúc phúc cho cháu, Leo. Chắt trai lớn! Ta có cảm giác cháu là đứa bé đặc biệt, giống như Hazel. Cháu còn hơn cả một đứa bé bình thường, nhỉ? Cháu sẽ bước tiếp thay ta. Cháu sẽ gặp cô ấy một ngày nào đó. nói xin chào với cô ấy hộ ta nhé.”
“Bisabuelo,” Esperanza nói, hơi dứt khoát hơn.
“Ừ, ừ.” Sammy cười khùng khục. “El viejo loco[14] lảm nhảm suốt ngày. Ông mệt rồi, Esperanza. Cháu nói đúng. Nhưng ông sẽ nghỉ ngơi sớm thôi. một cuộc đời tốt đẹp. Hãy nuôi dạy thằng bé cho tốt, nieta[15].”
Khung cảnh mờ đi.
Leo lại đang đứng trên boong tàu Argo III, nắm tay Hazel. Mặt trời đã lặn, và con tàu chỉ được thắp sáng bởi những lồng đèn bằng đồng. Mắt Hazel sưng húp vì khóc.
Những gì họ đã thấy là quá nhiều. Đại dương nhấp nhô bên đưới họ và lúc này, lần đầu tiên trong đời Leo cảm thấy họ như đang hoàn toàn lênh đênh.
“Xin chào, Hazel Levesque.” cậu nói, giọng khàn khàn.
Cằm cô run rẩy. cô quay đi và mở miệng muốn nói nhưng trước khi cô kịp làm vậy thì con tàu đã tròng trành nghiêng sang một bên.
“Leo!” HLV Hedge gào lên.
Festus kêu ù ù báo động và phun lửa vào bầu trời đêm. Chuông trên tàu rung lên.
“Đám quái vật mà trò lo sẽ đụng phải ấy mà?” Hedge hét lên. “một con trong đám đấy tìm thấy chúng ta rồi!”
[1] buckled leather shoes
[2] mũ lưỡi trai kỵ sĩ.
[3] Segway PT (viết tắt của Segway Personal Transporter – Xe cá nhân Segway), thường được gọi tắt là Segway là một phương tiện giao thông cá nhân có hai bánh, hoạt động trên cơ chế tự cân bằng do Dean Kamen phát minh. Loại xe này được sản xuất bởi công ty Segway Inc. ở bang New Hampshire, Hoa Kỳ. Từ “Segway” phát âm gần giống với “segue” (một từ gốc tiếng Ý có nghĩa “di chuyển nhẹ nhàng”)
[4] dunce cone: mũ làm bằng giấy đội vào đầu những học sinh học dốt hoặc có những hành vi không tốt như một hình phạt.
[5] gnome: các bức tượng lùn thường để trước cửa hoặc trong vườn để giữ nhà giữ vườn
[6] jujitsu: Nhu Thuật (柔術; Jujitsu, Jiu-Jitsu) là một danh từ gọi chung cho nhiều môn phái võ thuật cổ truyền của người Nhật. Nhu Thuật xuất nguồn từ giai cấp võ sĩ samurai xưa ở Nhật Bản dùng tay không để tự vệ và chống cự lại đối thủ có võ trang hay không võ trang. Vì các samurai nhận thấy rằng phương pháp đấm đá của các bộ môn võ khác không có hiệu nghiệm khi chống lại địch thủ mặc áo giáp, họ phát minh ra phương pháp dùng quật ngã, đè, siết cổ, khóa tay, khóa chân,… để kháng cự địch thủ. Những phương pháp này nói chung là dựa trên lý thuyết dùng sức công của đối phương để kềm chế địch thủ, thay vì chống trả trực tiếp.
[7] Hedy Lamarr và Clark Gable: hai diễn viên chính trong phim Comrade X (1940), bộ phim từng được đề cử giải Hàn Lâm cho Kịch Bản Xuất Sắc Nhất.
[8] Gary Cooper: là một nam diễn viên điện ảnh Mỹ. Ông nổi tiếng với phong cách diễn nhẹ nhàng, trầm lặng và khả năng tự chủ, kiềm chế cảm xúc nên được coi là hình mẫu hoàn hảo cho thể loại phim câm, nhưng bên cạnh đó, ông vẫn có thể thể hiện cá tính mạnh mẽ như trong một số bộ phim miền Tây ông tham gia. sự nghiệp của Cooper kéo dài từ năm 1925 cho đến tận khi ông sắp qua đời, bao gồm hơn một trăm bộ phim.
[9] conjunto: một thể loại nhạc bắt nguồn từ phía Nam Texas từ cuối thế kỉ XIX, thường có đàn bajo sexto (ghi-ta của Tây Ban Nha) và đàn accordion là nhạc cụ chính.
[10] Mã Morse hay mã Moóc-xơ, được phát minh vào năm 1835 bởi Samuel Morse, là một loại mã hóa ký tự dùng để truyền các thông tin điện báo. Mã Morse dùng một chuỗi đã được chuẩn hóa gồm các phần tử dài và ngắn để biểu diễn các chữ cái, chữ số, dấu chấm, và các kí tự đặc biệt của một thông điệp. Các phần từ ngắn và dài có thể được thể hiện bằng âm thanh, các dấu hay gạch, hoặc các xung, hoặc các kí hiệu tường được gọi là “chấm” và “gạch” hay “dot” và “dash” trong tiếng anh.
[11] Tiếng Tây Ban Nha, ghép từ ‘mi’(của tôi) và ‘hijo’(con trai) thành ‘mijo’ là ‘con tai của tôi’
[12] Tiếng Tây Ban Nha, ‘mi bebito’ tương tự ‘my baby’ trong tiếng anh, là ‘bé của tôi’
[13] Được dịch nguyên văn theo bản gốc. Thực ra từ Bisabuelo có nghĩa là ông thôi, còn từ tatarabuelo mới có nghĩa là ông cố. không biết tại sao lại có nhầm lẫm như vậy, có lẽ tại tác giả. Đây không phải lỗi của dịch giả ))))
[14] Tiếng Tây Ban Nha: ‘El viejo loco’ có nghĩa là ‘già rồi lẩm cẩm’
[15] Tiếng Tây Ban Nha: ‘nieta’ là ‘cháu gái’