Cây Tỏi Nổi Giận

Chương 16 :

Ngày đăng: 13:27 19/04/20


Huyện Thiên Đường từng xuất hiện anh hùng hảo hán



Sao giờ đây chỉ là đồ giẻ rách



Người người mặt ủ mày chau



Ôm tỏi thối mà than dài thở ngắn!



- Khấu mù hát động viên dân trồng tỏi xông vào huyện đường. Trích đoạn.



Cao Mã tuột xuống đất thì đầu tường hai tiếng súng nổ, bụi tung mù mịt, đất văng rào rào. Anh rơi trúng chuồng lợn của một gia đình, phân lợn bắn tung toé. Hai con lợn giật mình kinh hoảng hộc lên, chạy thục mạng quanh chuồng. Anh không kịp suy tính, đâm bổ vào chuồng trong, đầu va phải cái gì đó, tiếp đến là mặt mũi và đầu buốt như kim châm. Mở mắt nhìn, anh thấy treo lủng lẳng dưới gác chứa củi một tổ ong vò vẽ to bằng cái bát, hàng trăm con ong vỡ tổ xông ra như một đám mây màu vàng. Anh sợ quá, nằm úp mặt xuống đất, không dám ngẩng đầu lên. Chợt nghĩ có thể cảnh sát sục tới, anh ôm đầu chạy khỏi chuồng lợn, nhảy qua bức tường vây cao bằng nửa thân người, sang phía sau một đống rơm rạ, quành ra sân định chạy về phía đông thì cánh tay bị giữ lại. Nhìn lại, thấy một khuôn mặt trắng trẻo, anh chợt nhớ đây là nhà thầy giáo Chu, giáo viên tiểu học nông thôn. Thầy Chu từng bị Hồng vệ binh đánh gãy xương sống, không đứng thẳng được, hai gọng chiếc kính cận đều quấn băng dính.



Cao Mã không chủ định mà tự nhiên quì xuống xin thầy cứu mạng, rằng cảnh sát đang truy bắt anh về chuyện tỏi.



Thầy Chu dắt anh vào gian buồng tối như hũ nút, chứa toàn những hứ linh tinh, chổi cùn xế rách, xó buồng có một cái anh lớn ủ thức ăn cho lợn.



- Nhảy vào đi! – Thầy Chu bảo.



Cao Mã bất chấp cái mùi thum thủ của cám bã lên men, nhảy đại vào trong ang, ngồi thụp xuống, thức ăn của lợn dềnh lên mấp mé miệng ang. Thầy Chu ấn đầu anh, ra hiệu xuống thấp hơn nữa. Anh cố nhún thấp thêm, miệng đã lút trong cám. Thầy Chu dặn: “Không được lên tiếng, phải nín thở!” Thuận tay, thầy vớ cái gáo múc cám úp lên đầu Cao Mã, rồi lại kiếm đâu cái nắp ang vỡ, nửa đậy nửa không miệng ang.



Ngoài sân vang lên tiếng chân bước nặng nề, Cao Mã ló đầu lên một chút, hở tai ra để nghe. Anh thấy tiếng chân đi ra chuồng lợn, liền sau đó vọng lại tiếng cảnh sát:



- Mày… mày… mày nấp trong chuồng lợn, tưởng… tưởng… tưởng chúng tao không trông thấy hẳn? Ra… ra… ra mau!



- Không ra tao bắn!



- Đồng chí, các đồng chí làm gì đấy? – Thầy Chu hỏi.



- Bắt… bắt phản Cách mạng!


Sau đây làm gì? Bình tâm trở lại, anh tự nhủ. Ở huyện Thiên Đường thì không dám lộ mặt rồi, cái còng đang trên tay mình. Đợi đến đêm, mình thăm Cúc rồi chạy ra Quan Đông kiếm tiền đón hai mẹ con.



Khu rừng hoè – dâu có chim bay đến, nhốn nháo hẳn lên. Anh cảm thấy đói, bèn chọn cây hoè to một chẹt tay, cao hơn hai mét, ngọn đầy hoa. Anh nhẩy lên bám cổ cây, chỗ gần ngọn, dùng toàn bộ sức nặng của mình vít ngọn cây xuống. Cây bị uốn cong kêu răng rắc rồi gãy đôi, mộ mảng vỏ lột tới gốc, thân lộ trắng hếu, ứa ra những giọt nhựa vàng vàng. Anh hái vội cả hoa lẫn nụ nhét vào miệng, những bông đầu tiên gần như chui tọt xuống dạ dày, sau đó mới thủng thẳng nahi, nhấm nháp hương vị, hoa hoè ngọt lợ, hoa đã nở có vị đắng, nụ có vị tê, chỉ những bông chưa nở hết là có nhựa, không đắng không tê, vậy là anh chọn toàn những bông bán khai, một buổi sáng, anh ăn hết hoa của ba cây hoè.



Giữa trưa trời nóng bức lại có phát hiện mới. Lúc này, anh đã ngán hoa hoè. Anh ngửi thấy mùi chua chua ngòn ngọt trên cây dâu. Anh trông thấy trên chạc cây đầy những quả có gai màu tím, màu đỏ tươi, màu vàng chanh. Quả dâu! Anh ngạc nhiên, reo lên.



Cũng như hoa hoè, lúc đầu anh nuốt tớm, bất kể chín xanh, nhắm mắt nuốt. Lát sau, anh mới đánh giá mùi vị, màu vàng chanh: cứng, ngọt ít, chua nhiều, hơi chát; màu đỏ tươi: hơi cứng, ngọt, hơi chua; màu tím: mềm, ngọt khắt, gần như không chua, thơm mãi trong miệng. Anh hái những quả màu tím. Anh có kinh nghiệm: rung cây. Những quả chín nẫu hễ rung là rớt xuống. Buổi chiều, chắc hẳn miệng anh tím ngắt, đó là anh suy ra từ ngón tay anh. Buổi chiều, anh còn một phát hiện vĩ đại nữa: quả dâu trắng, vỏ ngoài trong suốt thấp thoáng màu xanh bên trong, trông như những viên ngọc, mùi vị thì khỏi nói, hơn hẳn dâu tím. Đây là giống dâu mới, vỏ cây màu trắng, lá to bằng bàn tay, dày như đồng xu đồng.



Trời gần tối, anh đau bụng dữ dội, lăn lộn trên cát. Khi trên trời có sao, anh đi ngoài nửa tiếng, bụng dần yên. “Nửa tiếng” là anh phỏng đoán, đồng hồ của anh đã bị anh Hai của Kim Cúc giằng mất hồi năm ngoái.



Dù thế nào cũng phải về thăm nhà một tí. Lang thang chẵn một ngày, anh vô cùng đau khổ vì bị tách ra khỏi cuộc đời. Chưa cách biệt hẳn, vì ban ngày anh còn nghe thấy tiếng nói chuyện của đám phụ nữ hái dâu, còn được bò lên mặt đê ngó trộm người lao động ngoài đồng, gió nam đưa tới mùi tiểu mạch chín, tằm chín có giờ, lúa chín có ngày, hình như ngày mai đã được gặt? Anh sốt ruột quá. Anh trồng hai mẫu tiểu mạch, lúa tốt. Toàn bộ ngồng tỏi coi như bỏ, nếu tiểu mạch lại bỏ nốt, từ giờ đến cuối năm lấy gì ăn? Anh vuốt mái tóc rối bù, nhận ra tóc đã muối tiêu, khoé mắt và hai bên mép đã đầy nếp nhăn.



Anh định lợi dụng bóng đêm lẻn về nhà. Anh đoan chắc cảnh sát không tội gì mà phục suốt hai đêm trong nhà anh. Anh tính rồi, trước hết lấy quần áo ra mặc, nhất định phải đi giầy. Anh nhớ còn một đôi giầy bộ đội mới tinh để trong hộp giấy rách gác trên đầu tường – Anh em nhà Phương sơ ý, bỏ sót khi vét nhà anh. Trong kẽ tường phía đông có bốn trăm bảy mươi đồng. Đây là số tiền anh bán ngồng tỏi hôm trạm thu mua khai trương. Hốm ấy coi như anh là người may mắn trong thôn. Anh nghĩ, đưa cho Kim Cúc bốn trăm để mua cái ăn, sắm cho thằng nhỏ vài cái quần áo. Bảy mươi đồng còn lại, mình chạy lên đông bắc, phải tìm chiến hữu cũ là Phó Huyện trưởng, xem có thể viết cho Thiên Đường một thư tình cảm, đề nghị họ xoá tội cho mình.



Chiếc còng trên tay ánh lên màu sáng xỉn, muốn bỏ nó, phải chặt. Anh sờ chiếc còng thép thanh mảnh ăn sâu vào thịt, chỉ cần búa và trạm, chỉ cần nghiến chặt răng là chặt đứt! Dù sao cũng phải về nhà.



Anh không dám đi trên đường lớn, vẫn phải men theo lối nhỏ hôm chạy trốn lần ngược từng bước, nghe ngóng động tĩnh, đi giật lùi mà về. Anh tự an ủi, cảnh sát người ít mà địa bàn thì rộng, quần chúng thì không ưa họ, dù có gặp cảnh sát, mình vẫn chạy thoát. Súng của họ cũng hơi sợ, hôm qua họ nã hai phát, mình chết lăn ra đấy thì số ăn mày! Có điều, trình độ của họ cũng thường, ban ngày còn bắn không trúng, huống hồ ban đêm!



đã về đến ngõ nhà mình mà anh vẫn hồi hộp. Nhà cửa xung quanh và rừng cây quen thuộc. Anh ẩn trong rừng, nín thở quan sát tỉ mỉ sân nhà mình. Sân yên tĩnh. Góc sân giun đất kêu, những con dơi bay ra bay vào qua cửa sổ. Anh nhặt cục đất ném về phía cửa sổ, viên đất rơi trúng chiếc chão vỡ đánh “bụp” một tiếng rất to. Trong nhà ngoài sân vẫn yên lặng. Anh ném một viên đá, vẫn lặng im. Để đảm bảo an toàn, anh lượn một vòng rộng, vòng ra sau nhà, men theo chân tường, lần đến dưới cửa sổ nghe ngóng, trong nhà có tiếng chộut kêu chít chít.



Anh yên tâm. Khi trở lại đầu ngõ, anh trông thấy những con vẹt màu sắc rực rỡ bay đầy ngõ và trong rừng.



Anh ngờ rằng, vẹt nhà Cao Trực Lăng sổ lồng. Con ngựa hồng chẳng bao giờ lớn, chạy như bay trong ngõ, bộ lông mượt toả ra mùi thơm quí phái.



Cửa buồng mở toang, anh sững người, nổi da gà. Vì mắt đã quen với bóng đêm, nên vừa bước qua ngưỡng cửa, anh trông thấy cửa buồng phía đông có một người đang đứng. Anh định bỏ chạy, nhưng anh nhận ra đằng sau mùi máu tanh tanh mà anh ngửi thấy, là cái mùi thân thiết nồng đậm của Kim Cúc. Giấc mơ dữ đêm qua trở lại như chớp, anh bám chặt khung cửa mới không ngã.



Anh tìm thấy diêm chỗ gần cửa bếp, hai tay đều run, anh quẹt đến lần thứ ba mới bén que gỗ. Trong ánh lửa chập chờn, anh trông thấy Kim Cúc treo lơ lửng dưới khung cửa, mặt tím đen, hai mắt lồi ra ngoài, lưỡi thè ra và cái bụng chữa vượt mặt.



Anh giơ hai tay như sắp sửa ôm Kim Cúc nhưng người anh lại đổ vật ra sau như một mảng tường đổ.