Charlie Bone 3: Charlie Bone Và Cậu Bé Vô Hình

Chương 1 :

Ngày đăng: 15:21 19/04/20


Chuyện mở đầu bằng...



Khi Vua Đỏ rời châu Phi, ông mang theo một con rắn, chính xác là một con trăn Nam Mỹ quý hiếm, do một nhà thông thái du mục dâng tặng. Con trăn này có bộ da vừa đen nhẫy vừa óng ánh bạc, mắt nó trông tựa hai giọt nước. Rất ít khi đôi mắt rừng rực ấy nhắm lại, mà có nhắm cũng chỉ là giả bộ. Khi nhà vua có mặt, con trăn luôn cảnh giác cao độ. Không một tên trộm hay kẻ ám sát nào dám vượt qua nó. Vị vua - người có thể nói được ngôn ngữ của loài rắn – quý con trăn như một người bạn, một vệ sĩ, và một cố vấn uyên bác. Ông yêu con trăn hết mực.



Một ngày nọ, trong khi Vua Đỏ vắng mặt vì đi săn dài ngày, người con cả của ông là Borlath đã giăng lưới bắt con trăn. Borlath có trái tim độc ác nhất loài người, và môn thể thao hắn mê thích nhất là tra tấn, hành hạ các sinh vật sống. Trong vòng một tuần, hắn đã biến con trăn thông thái và hiền lành thành một sinh vật khát máu, sống chỉ để giết chóc. Nó có thể quấn nạn nhân chết tươi trong vòng một vài phút.



Con gái của nhà vua là Guanhamara, kinh sợ trước bản chất giết chóc mới xuất hiện của con trăn, liền ra tay cứu con vật và yểm bùa, hy vọng chữa trị được cho nó. Nhưng than ôi, bùa chú của Guanhamara tung ra qúa trễ nên chỉ có thể làm yếu đi cú siết thần sầu của con trăn. Nạn nhân của con trăn sẽ không chết, mà trở nên vô hình.



Khi Guanhamara qua đời, con trăn rơi vô một giấc ngủ sâu. Nó teo quắt lại thành một vật không sống cũng không chết. Hy vọng một ngày nào đó sẽ lại đánh thức sinh vật này dậy, bảy người con gái của Guanhamara (người nào cũng đều là phù thủy) đem ngâm con trăn trong một hũ chất lỏng pha nhiều loại thảo mộc, nên nước có màu xanh da trời. Họ cũng cho vào hũ một con chim cánh mỏng, lông bóng mượt. Thế nhưng, xác những sinh vật ướp đó vẫn bị Borlath đánh cắp và truyền lại cho các hậu duệ của hắn, đến tận đời Ezekiel Bloor. Dùng phương pháp do ông nội mình truyền đạt lại, Ezekiel Bloor đã phục hồi được con trăn, mà lúc này da của nó đã chuyển thành màu xanh da trời óng bạc. Nhưng với con chim thì lão không thành công.



Ezekiel Bloor giờ đã một trăm tuổi. Từ lâu lão vẫn hằng khao khát có được khả năng tàng hình, nhưng theo như lão biết rõ, thì tác dụng của cú quấn con trăn là vĩnh viễn, và lão không dám để cho con vật quấn mình. Lão già vẫn đang ráo riết tìm cho ra phương pháp đảo ngược được tình trạng vô hình, trong khi con trăn vẫn sống trên gác mái tối tăm của Học viện Bloor, chôn kín bí mật của nó trong lòng, cho đến khi ai đó có thể mang đến cho nó niềm an ủi của sự thấu hiểu – và lắng nghe câu chuyện của nó.



KẺ NGUY HIỂM



Một con cú xà xuống nóc căn nhà số 9, đường Filbert. Nó lượn bên trên một con chuột đang cuống quýt chạy, sau đó đậu lên một cành cây kế cửa sổ của Charlie Bone. Con cú hú lên, nhưng Charlie vẫn ngủ say sưa.



Bên kia đường, trong nhà số 12, Benjamin Brown đã thức giấc. Nó hé tấm rèm phòng mình ra ngó con cú, và tình cờ thấy ba bóng người hiện ra nơi ngưỡng cửa nhà số 9. Dưới ánh đèn đường nhợt nhạt, gương mặt của họ khuất chìm trong bóng tối, nhưng Benjamin có thể nhận ra họ ở bất cứ nơi đâu. Họ là những bà cô của Charlie Bone, bà Lucretia, bà Eustacia, và bà Venetia Yewbeam. Khi lén lút đi xuống những bậc cấp, một trong ba bà thình lình ngước lên ngó Benjamin. Nó vội thụt nép vô sau tấm rèm và nhìn họ hấp tấp đi khỏi con đường. Cả ba bà đều mặc áo khoác đen có mũ trùm, và đầu họ nghiêng nghiêng, chụm vô nhau như những kẻ đang âm mưu chuyện gì đó.



Bấy giờ là bốn rưỡi sáng. Tại sao những bà cô nhà Yewbeam lại ra đi sớm như vậy? Có phải họ đã ở nhà Charlie suốt đêm? Họ lại đang mưu tính một kế hoạch độc địa nào đó rồi, Benjamin nghĩ.



Phải chi Charlie đừng được thừa hưởng cái tài phép quái lạ như thế. Và phải chi những bà cô của Charlie đừng biết gì về cái tài đó, thì có lẽ nó đã được yên rồi. Thế nhưng, một khi người ta có tổ tiên là một phù thủy và một vị vua, thì chắc chắn bà con họ hàng sẽ phải mong chờ một cái gì đó ở ta thôi.



“Tội nghiệp Charlie,” Benjamin lẩm bẩm một mình.



Con chó vàng to đùng của Benjamin, con Hạt Đậu, từ trên giường tru lên đầy thương cảm. Benjamin nghĩ bụng, hay là nó đã đoán được việc gì sắp xảy ra với nó. Chắc chắn rồi! Suốt hai ngày qua, cô chú Brown bận bịu dọn dẹp nhà cửa và gói ghém đồ đạc. Loài chó luôn cảm biết được việc gì sẽ diễn ra khi người ta bắt đầu đóng gói hành lý.



“Ăn sáng, Benjamin!” Cô Brown gọi với lên từ nhà bếp.



Có tiếng chú Brown đang hát trong nhà tắm.



Benjamin và con Hạt Đậu chạy xuống lầu. Ba tô cháo bột yến mạch đã để sẵn trên bàn nhà bếp. Benjamin ngồi xuống. Má nó đang chiên xúc xích và cà chua, và nó rất vui khi thấy má nó không quên con chó của nó. Tô của Hạt Đậu cũng đã đầy xúc xích thái cục rồi.



Chú Brown vô nhà bếp, miệng vẫn hát ư ử và vẫn mặc áo choàng tắm. Cô Brown đã thay đồ chỉnh tề - một bộ vét xám gọn gàng, với mái tóc thẳng màu rơm cắt ngắn. Cô không diện một món nữ trang nào cả.



Ba mẹ của Benjamin là những thám tử tư, và họ luôn chú ý sao cho càng có vẻ mai danh ẩn tích càng tốt. Thỉnh thoảng, họ đeo ria mép giả hoặc đội tóc giả để cải trang. Thường thì chỉ có chú Brown mới dùng râu ria giả, nhưng có một lần (cái lần mà Benjamin muốn quên đi) cô Brown cũng thấy cần thiết phải đeo một bộ râu giả.



Mẹ của Benjamin đổi cái tô nó vừa chén sạch, lấy thêm một dĩa đầy cho nó và bảo:



“Con đem Hạt Đậu qua nhà Charlie gởi ngay khi đánh răng xong nhé. Nửa giờ nữa chúng ta sẽ đi.”



“Dạ!”



Benjamin tọng cho xong chỗ điểm tâm còn lại rồi chạy trở lên lầu. Nó không bảo với mẹ nó rằng Charlie chưa chính thức nhận lời chăm sóc con Hạt Đậu.



Phòng tắm của gia đình Brown nhìn xuống đường Filbert, và trong khi Benjamin đánh răng, nó thấy một người đàn ông cao lớn, trùm áo khoác đen đi xuống các bậc cấp nhà số 9. Benjamin ngừng chải răng và trố mắt dòm. Việc quái gì đang diễn ra trong nhà Charlie thế nhỉ?



Cái ông cao to đó là Paton Yewbeam, Ông cậu của Charlie. Ông đeo kính đen và cầm theo một cây gậy màu trắng. Benjamin tin chắc là cặp kính đen kia có liên quan tới khả năng kích nổ bóng đèn đầy xui xẻo của ông. Ông cậu Paton vốn không bao giờ xuất hiện vào ban ngày, nếu có thể tránh được; nhưng ra ngoài vào thời điểm tréo ngoe như thế này thì thật là kỳ lạ, ngay cả đối với ông. Ông bước tới chiếc xe hơi màu xanh đậm, mở cốp xe ra và cẩn thận đặt cây gậy phép (và chỉ có thể là cây gậy phép) ngay phía sau.



Trước khi Benjamin chải răng tiếp thì Ông cậu của Charlie đã lái xe vù đi mất. Benjamin nhận xét, ông hướng về phía ngược lại với ba bà chị của mình. Điều này chẳng có gì ngạc nhiên, vì Ông cậu Paton và các bà chị là kẻ thù không đội trời chung của nhau.



“Con qua nhà Charlie lẹ đi,” cô Brown giục giã từ nhà bếp.



Benjamin gói đồ ngủ và bàn chải đánh răng lại rồi đi xuống lầu.



Đuôi của con Hạt Đậu xuôi xị. Tai nó cụp xuống và mắt đảo tròn thật thảm thương. Benjamin cảm thấy có lỗi.



“Đi nào, Hạt Đậu,” nó nói với vẻ hớn hở quá mức, nhưng chẳng lừa phỉnh được con chó tới một phút.



Thằng bé với con chó cùng rời nhà. Chúng là bạn thân nhất của nhau, và Hạt Đậu chắc không bao giờ mơ tới chuyện cãi lời Benjamin, nhưng hôm nay chú ta lết móng vuốt và miễn cưỡng bước lên những bậc cấp nhà số 9.



Benjamin nhấn chuông và Hạt Đậu rú lên. Chính tiếng rú đó đã đánh thức Charlie dậy. Tất cả mọi người trong nhà cũng bừng tỉnh, nhưng họ nghĩ mình vừa gặp ác mộng nên lại ngủ tiếp ngay.



Riêng Charlie, nhận ra tiếng rú, bèn lảo đảo xuống cầu thang, ra mở cửa.



“Gì vậy?” Nó hỏi, nheo mắt vì chói đèn đường. “Vẫn còn đêm mà?”



“Ừ.” Benjamin nói. “Mình có một tin hấp dẫn vô cùng. Mình sắp đi Hồng Kông đây”.



Charlie dụi mắt.



“Cái gì, ngay bây giờ?”



“Ừ.”



Charlie bối rối, ngó bạn lom lom, sau đó mời bạn vô nhà xơi bánh mì nướng. Trong khi nướng bánh mì, Charlie hỏi Benjamin rằng con Hạt Đậucó cùng đi Hồng Kông với nó hay không.



“È... không,” Benjamin ngập ngừng. “Nó mà đi thì sẽ phải cách ly để kiểm dịch. Nó ghét bị vậy lắm.”



“Vậy thì nó đi đâu?” Charlie liếc nhìn Hạt Đậu và con chó bự thảy cho nó một nụ cười héo úa.



“Chính vì vậy mà...” Benjamin vừa nói vừa ho nhẹ, “không có ai khác ngoài bồ, Charlie à.”




Charlie không chỉ có khả năng nghe được tiếng nói, nhưng nó sẽ chẳng hó hé gì cho đứa con gái lạ này.



“Những đứa trẻ có phép thuật phải làm bài tập về nhà trong phòng Nhà Vua,” nó nói. “Chúng ta có mười hai người. Một người tên là Emma Tolly, trong khoa hội hoạ, sẽ chỉ cho bạn biết khoa ấy ở đâu. Emma là bạn của tôi, nó cũng có phép thuật.”



“Emma? À, tôi đã nghe kể hết về nó.” Belle hơi nhích về phía Charlie trên chiếc trường kỷ. “Nè, kể cho tôi nghe về bạn đi, Charlie. Tôi tin rằng ba của bạn đã mất.”



“Không phải!” Charlie giận dữ nói. “Xe của ba tôi bị lao xuống hầm đá, nhưng họ không bao giờ tìm thấy xác của ông. Ông chỉ... mất tích thôi.”



“Thật à? Làm sao bạn biết?”



Không hề suy nghĩ, Charlie buột miệng.



“Bạn của tôi, Gabriel ấy, có tài phép kỳ lạ. Anh ấy có thể cảm nhận được sự thật từ quần áo cũ. Tôi đã đưa cho anh ấy chiếc cà vạt của ba tôi, và Gabriel nói ba tôi không chết.”



“Ố, ồ!”



Belle nở với Charlie một nụ cười ngọt ngào, ra vẻ thấu hiểu, nhưng tác dụng của nụ cười bị tiêu tan bởi tia nhìn lạnh lùng trong đôi mắt con bé - giờ đã chuyển thành màu xám đậm. Và không biết là do hiệu ứng ánh sáng hay không, mà Charlie thoáng thấy một mảng những nếp nhăn ở ngay trên vành môi đỏ mọng của Belle.



Charlie tuột khỏi trường kỷ.



“Tôi đi giúp bà ngoại làm bữa trưa đây,” nó nói.



Nó gặp ngoại Maisie ở trong nhà bếp, đang thảy các thứ rau vô chảo.



“Một đứa con nít ranh mà rình rang thế không biết,” bà lầm bầm. “Ta chưa nghe thấy cái gì trái khoáy như thế này cả.”



“Con cũng chưa nghe,” Charlie nói. “Con nhỏ lạ quá, phải không ngoại?”



“Thì rõ rành rành ra đấy, nó đẹp quá chừng!”



“Belle có nghĩa là đẹp mà,” Charlie nói, nhớ lại vốn tiếng Pháp của mình. “Nó rất đẹp.”



“Hứ!” Ngoại Maisie đáp.



Khi món xúp đã xong, Charlie giúp ngoại Maisie bưng xúp vô phòng ăn lạnh giá. Nội Bone đang ngồi sẵn ở đầu bàn, cùng với Belle ở bên phải.



“Paton đâu?” Nội Bone hạch hỏi.



“Ông cậu không xuống đâu,” Charlie nói.



“Sao không xuống?”



“Ông cậu vẫn thường không ăn chung với chúng ta mà?” Charlie nhắc bà nội.



“Bữa nay ta muốn hắn ở đây,” nội Bone dằn giọng.



“Hà hà, bà sẽ chẳng gặp ông ấy đâu,” ngoại Maisie nói. “Ông ấy đi rồi.”



“Hả?” Nội Bone cứng hàm lại. “Sao bà biết?”



Nội trợn mắt lên, trước tiên nhìn ngoại Maisie rồi lại nhìn Charlie.



Ngoại Maisie ngó Charlie.



“Ông cậu có để lại tin nhắn,” Charlie nói.



“Nhắn cái gì?” Nội Bone vặn vẹo.



“Cháu không nhớ hết được,” Charlie làu bàu.



“Đưa nó cho tao xem!” Bà ta chìa một bàn tay xương xẩu ra.



“Con xé rồi.” Charlie nói.



Đôi lông mày của nội Bone quặp xuống, cau có.



“Lẽ ra mày không nên làm thế. Tao muốn biết có chuyện gì. Tao phải biết em trai tao nói gì.”



“Ông cậu bảo ông đi thăm ông cố của con, tức là cha của bà, mặc dù bà không bao giờ đi thăm ông cố.”



Đôi mắt đen nhỏ tí của nội Bone gần như biến hẳn vô trong hốc mắt nhăn nhúm.



“Đó không phải là việc của mày! Paton vừa đi thăm cha của bọn ta hồi tuần trước rồi. Mỗi tháng nó chỉ đi một lần thôi.”



Charlie phải ráng kìm chế, đặng không buột nói ra chuyến đi thăm ông cố của nó. Do mối thù gia đình nên vẫn cần phải giữ bí mật điều đó. Nhưng Ông cậu Paton chưa bao giờ kể cho Charlie nghe về nguyên nhân gây nên nỗi thù hằn đó, hay vì sao ông lại bị cấm không được nhắc tới nó. Charlie đành phải bịa thêm một câu nói dối nữa.



“Có chuyện khẩn cấp.”



Câu này có vẻ thỏa mãn nội Bone, nhưng Belle vẫn không thôi nhìn chằm chằm vô Charlie. Mắt con bé giờ là màu xanh lá cây đậm. Bỗng một ý nghĩ rợn óc nảy ra trong đầu Charlie. Ông cậu Paton đi để ngăn không cho một người nguy hiểm tới. Nhưng hình như kẻ đó đã ở đây rồi?