Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang
Chương 1 :
Ngày đăng: 15:23 19/04/20
Charlie Bone sống trong một thành phố ôm giữ vô vàn điều bí mật. Những bí mật ẩn giấu trong tường và chôn vùi dưới đất hàng bao thế kỷ.
Thành phố đó ra đời cách đây chín trăm năm, bắt đầu từ một lâu đài do tổ tiên của Charlie là Vua Đỏ xây dựng nên. Tên của Vua Đỏ xuất phát từ tấm áo chùng đỏ rực và hình mặt trời chiếu sáng khắc trên tấm khiên của ngài. Vua Đỏ là người Phi châu; ngài cũng là một thầy pháp.
Khi hoàng hậu yêu quý của nhà vua, hoàng hậu Berenice, qua đời, ngài đi vào rừng để than khóc. Ngài rất an tâm khi mười người con của mình sẽ an toàn trong tay của những quan cận thần uyên bác và những bà vú hiền lành. Vả lại, mỗi người con của ngài đều được ban một tài phép thần kỳ.
Vào thời đó, vương quốc của ngài là một nơi đầy bạo lực và không có luật pháp – nạn giết người cướp của hoành hành. Trên đường về nhà, ngài nhận thấy cần phải đem tài phép vô song của mình ra cứu giúp dân nghèo và những người bị áp bức. Lập tức, ngài mặc giáp sắt, đội mũ sắt cắm chùm lông đỏ, sau đó hóa phép ra một thanh gươm bất khả chiến bại và cưỡi ngựa xông pha đi bảo vệ những người khốn khổ và những kẻ thân cô thế cô.
Vua Đỏ diệt trừ bọn bạo chúa, quân sát nhân và lũ quý tộc kẻ cướp suốt 5 năm. Cuối cùng, khi ngài về đến lâu đài, mới hay, năm người con của mình đã trốn chạy, còn năm kẻ ở lại thì dùng tài phép của mình đi thôn tính những quốc gia láng giềng. Chính những những con này và cháu chắt của họ đã bắt đầu lịch sử tang thương và đồi bại kinh hoàng của thành phố. Không thể ra tay đánh đuổi chính các con mình, nhà vua tan nát trái tim đành phải rời khỏi lâu đài của mình vĩnh viễn.
Bà nội Charlie cùng ba người em gái của bà ta đứng về phe quỷ ác. Trong thời gian ba nó bị ếm bùa, họ tống nó vào học viện Bloor, ngôi trường do một dòng họ có quá khứ cực kỳ bạo ngược điều hành. Charlie luôn luôn phải e dè gia đình Bloor và đồng minh của họ, nhưng, tính cho đến nay, nó đã đập tan mọi âm mưu đè bẹp nó của họ, bởi vì xung quanh nó có nhiều bạn bè là hậu duệ của Vua Đỏ, luôn dùng tài phép phi thường của mình để trợ giúp nó.
Riêng với tài đi vào quá khứ của mình, Charlie đang dần khám phá những bí mật của thành phố. Đó là một hành trình nguy hiểm, nhưng Charlie có bạn bè sát cánh bên mình và có niềm tin sắt đá vào tài phép muôn đời của Vua Đỏ.
KHÔNG HẲN LÀ NGƯỜI
Hẳn là bạn sẽ nghĩ Charlie Bone ẩu thật khi để mất cha nó lần thứ hai, nhất là vào lúc nó chỉ vừa mới tìm thấy cha. Họ đã cách mặt mười năm ròng – những năm bị ếm yêu thuật, chú Lyell Bone chìm đắm trong sự quên lãng, không thể nhớ gì về quá khứ, thậm chí kể cả tên của mình cũng quên
Lần này, chí ít Charlie cũng biết cha mình đi đâu. Ba nó đang đưa mẹ nó đi hưởng tuần trăng mật lần thứ hai. Còn gì sung sướng hơn lánh xa những ngày tháng Hai âm u, lạnh lẽo để đi xem cá voi và cá heo nô giỡn ngoài biển rực nắng? Tất nhiên họ rủ Charlie đi cùng, nhưng nó đã ý nhị từ chối. Cha mẹ nó cần được ở bên nhau, ngoài ra, ở nhà nó còn mấy việc phải hoàn thành. Có vài điều bí ẩn cần làm sáng tỏ.
Lúc này đây Charlie đang ở ngoài cổng ngôi nhà nơi nó chào đời. Đó là một tòa nhà gạch đỏ, mái lợp ngói nghiêng dốc, có bốn bậc thang dẫn lên cánh cửa trước màu xanh da trời. Charlie và mẹ đã rời ngôi nhà này khi nó 2 tuổi, thành ra nó chả nhớ chút gì về chốn này. Ngay như cái tên nhà cũng lạ lẫm đối với nó: “Góc Kim Cương” – tọa lạc trên góc phố Diamond và đại lộ Lyme.
Bây giờ Charlie đã 12 tuổi – một thằng bé cao trung bình, tóc đen bù xù và mắt nâu màu quả óc chó. Một thằng bé bình thường về mọi phương diện, ngoại trừ một điều: nó là người-đi-vào-tranh, một tài phép nó thừa hưởng từ Vua Đỏ huyền thoại.
Đứng bên cạnh Charlie là một người đàn ông cao lớn, nét mặt rắn rỏi, đẹp như tạc và mái tóc đen thẳng, dài gần chấm vai. Ông mặc áo khoác đen, dài và trùm chiếc mũ đen rộng vành sụp hẳn xuống, dường như để che kín mắt, mặc dù trong buổi chiều thứ Bảy u ám này không có lấy một tia nắng mặt trời yếu ớt nhất.
“Phải sửa nhiều đây,” người đàn ông nhận xét, nhìn những lỗ hổng đen ngòm trên mái nhà, nơi những miếng ngói lợp bị tốc mất.
“Ước gì con có thể dọn vào đấy ở ngay, Ông cậu Paton à,” Charlie nói.
“Con không phải đợi lâu nữa đâu,” Ông cậu bảo nó. “Tuần tới là thợ xây, thợ sơn, thợ ống nước, và thợ lợp mái sẽ bắt đầu tu sửa mà.”
“Chúng ta vào xem chút đi.” Charlie mở cổng và bước trên lối đi hẹp cỏ mọc tràn lan. Ông cậu nó theo sau, leng keng một chùm chìa khóa. Khi vào gần hơn, họ nhận thấy có ánh đèn ở một trong những cửa sổ tầng dưới.
“Có người trong đó.” Charlie chạy ào lên tới cửa. Ông cậu đang ở sau nó một bước liền phóng vèo qua các bậc thang và tra một chiếc chìa khóa vào ổ. Cánh cửa xanh da trời mở tung và Charlie bước vô trong.
Mùi cũ mốc nồng nặc trong hành lang. Ván lót sàn ẩm, bám kịt bụi, những mảnh giấy dán tường bong tróc dính lủng lẳng trên các bức tường nhem nhuốc, đen xì. Charlie cố nhón chân nhẹ hết sức, nhưng những tấm ván trần trụi cứ rung lên kèn kẹt dưới từng bước đi của nó. Nó vội vàng mở một cánh cửa bên trái và ngó vô căn phòng hồi nãy nó thấy có ánh sáng. Trống huơ trống hoác. Ông cậu Paton hất đầu ra hiệu về phía cánh cửa khép hờ ở phía kia căn phòng. “Nhà bếp đó,” ông thì thào.
Một tiếng chân được nghe thấy. Khó mà biết nó từ đâu vọng tới. Charlie băng xoẹt qua căn phòng, những bước chân nặng nề của ông cậu bám theo. Nhưng cả nhà bếp cũng trống trơ. Một tiếng “rầm” đanh, gắt, làm Charlie lao bắn vèo qua nhà bếp, vô lối đi hẹp. Cánh cửa sau mở toang, xô đánh ầm vào bức tường phía sau nó một tiếng rung chuyển nữa. Một luồng khí lạnh ập vào mặt Charlie khi nó nheo mắt dòm ra ngoài trời. Vừa vưa kịp lúc cho nó thấy hai bóng đen chui lẹ qua quãng hàng rào gãy ở cuối vườn.
“Hê!” Charlie hét lớn, chạy bươn qua thảm cỏ và những cây dại cao khô héo. Tới hàng rào, nó nhoài người ngó ra ngõ hẹp tí rị. Nhưng kẻ đột nhập đã biến mất.
“Chắc là những kẻ lang thang.” Ông cậu Paton đá vào một chồng báo cũ ở góc nhà. “Về thôi, Charlie.”
“Cho con lên lầu đi?” Charlie năn nỉ. “Con muốn xem mình có nhớ căn phòng mình từng ngủ hay không.”
“Thì đi.” Ông cậu Paton theo Charlie lên cầu thang. Khi ông lên tới nơi, Charlie đang đứng nhìn trân trối vào hai cánh cửa trước mặt nó. Có thêm hai cánh cửa bắt đầu một hành lang ở bên trái nó, rồi một cánh nữa ở bên phải. Nó chọn một cánh.
“Con nhớ giỏi quá, Charlie!”
“Con chỉ đoán thôi,” Charlie nói. Nó đẩy mở cánh cửa đó ra. “ỐI!”
Không thể đi được bước nào vô phòng. Tất cả ván lót sàn đã bị dỡ sạch. Tấm thì dựng đứng vào tường, những tấm khác lại nằm vắt trên các thanh rầm hẹp đỡ sàn nhà.
“Quái lạ!” Ông cậu Paton ghé nhìn qua vai Charlie. “Ta không biết là thợ xây đã bắt đầu rồi.”
Hai ông cháu nhìn vào những căn phòng khác. Phòng nào cũng trong tình trạng tương tự: ván lót sàn bị giật tung rồi quăng bừa bãi vào góc nhà hoặc vắt vẻo trên những thanh rầm mỏng.
“Trông như ai đó sục sạo tìm vật gì,” Charlie nhận xét.
“Một cuộc lùng kiếm tuyệt vọng,” ông cậu đồng ý. “Ta tưởng tượng họ cũng bứt tung sàn nhà dưới lầu lên, nhưng sau đó đã gắn lại để đề phòng người ta nhìn vô qua cửa sổ.”
“Con không thích nghĩ tới việc người lạ lẻn vô và đào bới nhà cũ của con,” Charlie nói.
Khi đi xuống lầu, họ căng mắt tìm xem có dấu hiệu mặt bậc thang bị bứng đi không. Lần này họ phát hiện mặt gỗ tưa xước, đinh bị nhổ lên và tay vịn xục xịch.
“Thế này thì phải thay hết ổ khóa thôi,” Ông cậu Paton nói khi hai ông cháu trở ra đứng ngoài đường. “Để ta nói chuyện với nhà thầu.”
Họ bắt đầu rảo bộ về ngôi nhà số 9, đường Filbert. Ông cậu Paton mải nghĩ về bọn xâm phạm nên quên bẵng là đèn đường đang sáng. Trước khi Charlie kịp cảnh báo, ông đã vô tình ngước lên và bóng đèn phía trên đầu ông kêu bụp một phát, nổ tung.
Ông cậu Paton chúi người né trận mưa thủy tinh dội xuống đầu mình. “Chán quá! Chán quá!” ông gầm to. “Ai cần làm kẻ tăng áp cơ chứ!”
Ông cậu Paton Yewbeam, một hậu duệ khác nữa của Vua Đỏ, thừa hưởng một tài phép không may. Chỉ cần ông hơi liếc vào một bóng đèn đang cháy, dù nó ở trong cửa sổ, trong nhà dân, trên đường phố, hay tại nhà mình, thì tất yếu nó vẫn cứ tăng sức nóng lên đến độ nổ tan bóng đèn. Vì vậy nên Ông cậu Paton rất ít khi ra khỏi nhà vào ban ngày. Đèn giao thông, đèn xi-nhan ô-tô và đèn cửa sổ bày hàng luôn có nguy cơ hứng chịu tài phép khốn khổ này của ông. Ông thấy điều này thật bất tiện cho mình.
Lần này tai nạn của Ông cậu Paton đã để lộ ra một sự việc. Trong chớp lóe sáng vụt chiếu con đường, hai hình hài bị nhìn thấy đang lúp cúp bên một hàng rào. Khoảnh khắc đó kéo dài không tới một giây nhưng gương mặt họ đã in đậm trong tâm trí Charlie. Trông họ... không hẳn là người.
Charlie chớp mắt trước cơn mưa thủy tinh dội xuống đầu ông cậu. Khi nó mở mắt ra thì hai hình hài đó đã biến mất.
“Mau lên, Charlie, chúng ta mau ra khỏi đây kẻo có người thấy chúng ta.” Ông cậu Paton chộp cánh tay Charlie và lôi nó đi khỏi hiện trường.
“Có người đã nhìn thấy chúng ta rồi, Ông cậu Paton. Con nghĩ đó có thể là bọn họ. Tức những kẻ đột nhập nhà con. Nhưng họ không hẳn là người. Nếu ông hiểu ý con.”
“Ta không hiểu.” Ông cậu Paton túm chặt cánh tay Charlie hơn. “Nhanh lên! Nhanh ra khỏi đây!”
Charlie thấy mình bị lôi xệch qua đường. Một chiếc xe lao tới bóp một tiếng còi cảnh báo và Ông cậu Paton vội giật nó lên vỉa hè.
“Hồ có thể bị loãng,” Dagbert lẳng lặng nói.
Một bầu thinh lặng kinh ngạc theo sau lời nhận xét này. Gia đình Bloor đánh giá Dagbert bằng mối quan tâm mới. Nhưng ánh mắt thằng bé đang bị ghìm giữ trong đôi mắt sứt sẹo đang nhìn ra nó từ trong bóng tối, và tất cả mọi người trong phòng đều cảm nhận mối dây vô hình được hình thành tức tốc giữa Dagbert Endless và Manfred Bloor.
Ezekiel mỉm cười thỏa mãn. Từng có nhiều đứa trẻ được ban phép thuật học ở học viện Bloor; không thiếu đứa độc địa một cách đáng hài lòng, nhưng lão chắc chắn chưa đứa nào chết người như thằng bé phương Bắc có đôi mắt băng trôi này.
Lord Grimwald đứng dậy và bắt đầu di chuyển trong phòng bằng kiểu đi lảo đảo quái đản của mình. “Vậy là ông sẽ giáo dục con trai ta. Thế còn ta sẽ phải làm gì cho ông?”
“À, bây giờ chúng ta đi vào mấu chốt vấn đề,” lão Ezekiel hồ hởi. “Ông có thể điều khiển biển cả, Lord Grimwald. Một tài phép không ai bằng, nếu ta có thể nói thế.”
Lord Grimwald nghiêng đầu trong khi vẫn tiếp tục liêu xiêu trong phòng.
Tiến sĩ Bloor nói, “Cha của Charlie, Lyell Bone, hiện giờ đang ở ngoài biển. Hắn đi hưởng tuần trăng mật lần thứ hai với vợ là Amy. Và bọn chúng đã quyết định sẽ đi xem cá voi.”
“Xem cá voi!” lão Ezekiel cười lục cục. “Bọn ngớ ngẩn. Chúng đang ở trên một con thuyền bé tẹo, sóng sẽ đánh thuyền của chúng nghiêng ngả, đến khi một con sóng cao nhất, lớn nhất, rộng nhất sẽ dìm con thuyền xuống đáy đại dương, cho Lyell và Amy mãi mãi nằm lại dưới đấy. Ông nghĩ sao về điều đó, Lord Grimwald?”
“Ta có thể làm điều đó cho ông.” Lord Grimwald dừng bước và ngồi xuống. “Nhưng cho ta hỏi, ngoài trừng phạt Charlie Bone, còn có lý do nào khác mà ông muốn dìm chết Lyell Bone?”
“BẢN DI CHÚC!” cả tiến sĩ Bloor và lão Ezekiel cùng đồng thanh.
“Bản di chúc?” Lord Grimwald hỏi.
“Nó xưa, xưa lắm rồi, nhưng vẫn còn hiệu lực,” lão Ezekiel nói. “Do ông tằng tổ của ta, Septimus Bloor, lập năm 1865, ngay trước khi chết. Lão ấy để lại mọi thứ: nhà, vườn, lâu đài trên bãi đổ nát, những tài sản vô giá, tất tật... tất tật cho con gái lão là Maybelle và bọn thừa kế của mụ. Nhưng bà dì của ta, Beatrice, là một phù thủy. Beatrice rất căm ghét Maybelle, nên đã đầu độc Maybelle và làm giả một bản di chúc khác. Bản di chúc này, bản giả đó, để lại tất cả mọi thứ cho ông nội ta, Bertram. Ông ấy để lại tất cả cho cha ta, sau đó cho ta. Beatrice không muốn gì cho mình cả – bà ấy thấy Maybelle chết và thấy con cái mụ bơ vơ sống nhờ trại tế bần là mãn nguyện rồi.”
“Thứ lỗi cho sự chậm hiểu của ta, ngài Bloor, nhưng đâu là vấn đề?” Lord Grimwald xòe tay ra. “Dường như bản di chúc thật không còn tồn tại nữa.”
“Nhưng có đấy, nó vẫn tồn tại,” lão Ezekiel thét gào. “Có kẻ đã tìm thấy nó, đó là Rufus Raven, chắt của Maybelle. Hắn đã trao cho vợ hắn, Ellen, ngay trong ngày cưới.”
“Trao bản di chúc?” Lord Grimwald hỏi.
“Không, không chính xác là bản di chúc. Ellen được trao chiếc hộp đựng bản di chúc,” tiến sĩ Bloor giải thích. “Chìa khóa đã mất và cô ta không thể mở được chiếc hộp, nhưng Ellen được ban phép nhận biết... đồ vật. Cô ta đoán trong hộp chứa một thứ cực kỳ quan trọng.”
“Bọn ta tin rằng Rufus đã trao chiếc hộp cho Lyell Bone giữ cho an toàn,” lão Ezekiel nói. “Chúng là bạn nối khố của nhau, hắn và Rufus ấy. Bọn ta đã thương lượng, đã cố dọa nạt: ‘Đưa cái hộp cho bọn ta thì mi sẽ được một nửa gia tài’. Dĩ nhiên bọn ta dụ thế thôi.” Một nụ cười quỷ quyệt bệu ra khỏi cặp môi héo hắt của lão Ezekiel. “Nhưng Rufus không chịu nhả. Vì vậy bọn ta buộc phải khử hắn với con vợ khờ khạo của hắn. Một tai nạn thương tâm do một thợ máy xe được ta trả công bày bố. Thằng con của chúng sống sót, nhưng nó chẳng biết tí ti gì.”
“Tên nó là Billy,” tiến sĩ Bloor nói. “Bọn ta đang giữ nó ở đây. Nó 8 tuổi và có thể nói chuyện với thú vật.”
“Lợi hại ghê,” Dagbert thích thú.
Lão Ezekiel cười gằn. “Tài phép của Billy đến giờ chả có lợi lộc gì cho nó. Như Thương Hại này là ví dụ.” Lão bật ngón tay. “Thương Hại, lại đây.”
Một con chó già khú đế từ dưới gầm bàn hiện ra. Mắt nó bị khuất tịt trong mớ da bèo nhèo chảy xệ, bộ vó ngắn cũn cỡn hầu như không đỡ nổi thân hình ục ịch của nó. Môi Dagbert tớn lên ghê tởm khi con vật ự hự và dí vòm miệng nước dãi lòng ròng vào tấm chăn của lão Ezekiel.
“Billy gọi nó là May Phúc,” lão Ezekiel nói. “Có trời mới biết tại sao. Con chó này hiểu được mấy lời láo nháo của Billy nhưng lại chả hiểu những gì bọn ta nói. Bướm với lại,” lão Ezekiel huơ đôi tay còng queo lên khỏi đầu, “với lại... tiệc sinh nhật, là tất cả những gì nó biết. Vì vậy nó không thể mách lẻo Billy chút gì về cuộc chuyện trò của bọn ta, hay về sự thừa kế của nó.”
“Lão chắc không đó?” Dagbert nghi ngờ tia con chó.
“Hoàn toàn,” tiến sĩ Bloor nói. “Những từ duy nhất con chó đó biết là tên nó: Thương Hại hoặc May Phúc.”
Điều này không hẳn đúng. May Phúc không đủ khả năng để hiểu hết từng lời được nói ra, nhưng nó hiểu mạch cảm xúc ở trong phòng. Nó biết bọn họ đang nói về bạn của nó, Billy, và linh cảm hai kẻ lạ mặt kia mang đến tai họa. Họ phả mùi sương và gỗ mục. Da họ lạnh và trơn nhẫy, và trong giọng nói của họ có âm vang tiếng sóng đập vào bờ đá. Mắt thằng bé nhoang nhoáng như nước đóng băng, và mặt của người đàn ông kể về những con tàu đắm và những người bị chết đuối thương tâm. May Phúc sẽ mô tả tất cả những điều này cho Billy, sau đó Billy sẽ nói chuyện với bà bếp trưởng. Và bà bếp trưởng sẽ cho May Phúc một cục xương to, May Phúc hy vọng vậy. Con chó già hướng ra cửa, ngúc ngoắc cái đuôi trụi lủi và đánh một phát rắm khi nghĩ về cục xương hằng ao ước.
Có tiếng gõ cửa lớn và, khi cửa mở, May Phúc hấp tấp sượt qua Weedon ra hành lang.
“Bà bếp trưởng đã dọn xong bữa tối,” Weedon thông báo một cách cục cằn.
“À!” tiến sĩ Bloor đập hai bàn tay vào nhau. “Phòng ăn ở cuối hành lang. Đi hướng này, xin mời mọi người.”
Trong khi hai vị khách đi theo tiến sĩ Bloor, một phụ nữ nhỏ nhắn từ phòng ăn hiện ra. Bà bếp trưởng đã tròn trịa hơn ngày trước, mái tóc đen giờ hơi ngả xám, nhưng gương mặt hồng hào vẫn lưu lại những nét xinh đẹp thời trẻ. Trông thấy tiến sĩ Bloor và khách, bà đứng nép qua bên cho họ đi qua.
“Cảm ơn, bà bếp trưởng,” tiến sĩ Bloor nói.
Bà bếp trưởng gật đầu, bỗng bất giác rùng mình. Bà bụm chiếc khăn mùi xoa lên mặt và lật đật đi khỏi. Tim bà đập nhanh đến nỗi May Phúc cũng nghe thấy khi bà chạy theo sau nó xuống cầu thang.
“Ối, hãi hùng! Ối, kinh hoàng! Đó là hắn. Là hắn đấy. Ối, May Phúc, ta phải làm gì đây? Sao hắn lại ở đây? Sao lại là bây giờ?”
Bà bếp trưởng bươn vào căn tin xanh da trời, với May Phúc kè sát nút. Chiếc khăn mùi xoa vẫn bịt chặt miệng bà như thể từng luồng không khí bà hít vào đều bị đầu độc.
“Bà bếp trưởng, chuyện gì vậy ạ?”
Bà bếp trưởng đã không thấy thằng bé tóc trắng đang ngồi bên cái bàn trong góc.
“Ồ, Billy, cưng. Ta bàng hoàng quá.” Bà kéo một chiếc ghế ra và ngồi xuống cạnh nó. “Có một người đàn ông ở đây. Hắn... hắn...” bà lắc đầu. “Billy, ta cần phải nói với con. Chính hắn đã dìm chết cha mẹ ta, quét sạch nhà cửa của ta và giết hại vị hôn phu của ta, tất cả chỉ vì ta không cưới hắn.”
Đôi mắt màu rượu vang đỏ của Billy trợn tròn kinh hãi. “Ở đây? Nhưng tại sao?”
“Ta không lý giải được cho con hiểu. Có gì đó liên quan tới thằng bé mà hắn mang theo, ta nghĩ vậy.” Bà bếp trưởng hỉ mũi và giắt chiếc khăn mùi xoa vào tay áo. “Tên hắn là Grimwald. Chuyện đã bốn mươi năm rồi. Ta không biết hắn còn nhận ra ta không. Nhưng rủi hắn nhận ra...” bà nhắm mắt lại cố gạt đi những nỗi kinh hoàng không thể tưởng tượng được. “Nếu hắn nhận ra, ta buộc phải rời khỏi đây.”
“Rời khỏi đây? Không thể được, bà bếp trưởng!” Billy bật dậy và vòng tay ôm cổ bà bếp trưởng. “Con sẽ ra sao nếu không có bà? Bà không thể đi được. Bà đừng đi. Làm ơn đừng đi, mà.”
Bà bếp trưởng lắc đầu. “Ta không biết, Billy. Đã từng có rất nhiều người khủng khiếp tới nơi này, nhưng hắn là kẻ kinh khủng nhất. Nếu thằng bé kia có chút gì giống hắn, chúng ta sẽ nguy khốn, tin ta đi.”
Bất thình lình May Phúc chồm hai chân lên đùi bà bếp trưởng và ngửa đầu ra sau, tru lên một tiếng thê lương đến nỗi Billy phải bịt tai lại.
“Nó biết,” Billy thì thầm. “Nó muốn nói với con điều gì đó, nhưng con không chắc mình có muốn nghe không.”