Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang

Chương 4 :

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


BỌ BIẾN DẠNG



Sáng Chủ Nhật, mưa dầm, thỉnh thoảng chuyển mưa tuyết, trôi lượt thượt xuống những tấm kính cửa sổ. Bầu trời tối sụp, xám như chì, nhiệt độ đóng băng. Vẫn không thấy bóng dáng bà bếp trưởng đâu, nên Charlie và Billy phải ăn bữa sáng khốn khổ trong căng-tin xanh lá cây: lại bánh mì nướng cháy, không bơ, không cốm bắp. Chúng đã chắc mẩm là mình phải đứng lên mà không được uống gì thì mụ Weedon đặt kịch một bình nước và hai cái ca xuống bàn chúng.



“Cháu nghĩ lẽ nào tụi cháu không được một miếng bơ?” Charlie thận trọng hỏi.



“Mày nghĩ đúng đấy,” mụ Weedon nói.



“Còn mứt?” Billy gợi ý.



Mụ Weedon lờ tịt thằng nhóc và hằm hằm đi ra. Hai phút sau trở lại với một bình đựng cái gì trắng trắng. “Váng kem đấy,” mụ bảo tụi nó. “Rất tốt cho tụi mày.”



Hai thằng nghi ngờ nhìn cái gọi là váng kem. Ngay khi mụ Weedon tếch khỏi, Charlie thò con dao ăn của nó vào bình rồi nhấc ra, dính nhoe nhoét. Nó liếm con dao. “Uuuurrrghh! Kinh tởm.”



Billy lại có quan điểm khác. “Em thích nó,” thằng bé trét dày váng sữa vào miếng bánh của nó. “Bánh cháy sẽ đỡ hơn với cái này phết lên.”



Ăn sáng xong chúng lang thang lên phòng Nhà Vua. Không có ai để bảo chúng phải làm gì. Nếu Manfred Bloor ở đó, thể nào hắn cũng ra lệnh chúng phải ra sân chơi. Hắn rất khoái đuổi cổ bọn trẻ ra ngoài trời, đặc biệt là những khi trời lạnh và ẩm ướt. Mà Manfred bấy nay đâu chẳng thấy?



“Em nghe nói hắn trông như quái vật.” Billy liếc quanh căn phòng, nơm nớp sợ Manfred xồ ra từ sau một kệ sách. “Hắn bị gù lưng và què.”



“Anh ngạc nhiên là hắn còn sống,” Charlie nói khẽ. “Không nhiều người sống sót nổi sau khi bị báo tấn công đâu.”



“Báo!” Vẻ khiếp đảm pha lẫn trong giọng nói của Billy. “Trông chúng y như mèo bình thường vậy, trừ màu lông.”



“Ừm.” Charlie chưa bao giờ ngưng thắc mắc làm thế nào mà ba con mèo, trong vài phút sống còn, lại biến thành báo, có khả năng xé xác người ra thành từng mảnh. À, không thành từng mảnh đâu, nhưng thế là đủ rồi.



Đến giữa trưa hai thằng quyết định đi tìm bà bếp trưởng. Sau một bữa sáng sơ sài, bao tử chúng đã đánh lô tô rồi. Khi đi xuống cầu thang chính, chúng thấy một bóng người đang băng qua tiền sảnh. Áo chùng đen phủ toàn thân người đó. Chỉ còn nhìn thấy được bàn chân, bọc trong giày bốt đen, bên dưới cẳng chân mặc quần xắn đến mắt cá. Chiếc mũ trùm ụp kín cái đầu bổ về trước, thòi ra từ đôi vai thõng xuống một cách bất tiện, quái dị.



Hai thằng bé đông cứng lại khi thân hình đội mũ trùm khập khiễng đi tới cánh cửa dẫn vào chái phía tây. Có vẻ bất lực trong cách hắn giật và lắc cái vòng tay cầm, hình như hắn không thể vặn được nó vậy. Nhưng cuối cùng cánh cửa cũng mở ra, và đến khi đó cái hình hài mới quay về phía bọn trẻ.



Chúng đinh ninh là sẽ thấy một gương mặt cau có, biểu thị sự tức giận vì bị dòm ngó. Nhưng người đàn ông đội mũ trùm không có mặt. Charlie và Billy thấy mình nhìn vào một chiếc mặt nạ trắng khoét hai lỗ xiên xiên, viền bạc và một cái miệng há hoác hình con thuyền. Thế rồi hắn biến mất, lướt qua cánh cửa nhỏ với tốc độ đáng kinh ngạc, bỏ lại hai thằng trơ khấc ra ở cầu thang.



“Manfred,” Billy thì thầm.



Charlie gật đầu. “Chắc vậy.”



“Em thấy ớn sườn. Em đang cố tưởng tượng gương mặt hắn thế nào.”



“Đừng tưởng tượng,” Charlie nói.



Mãi rốt cuộc chúng tìm ra bà bếp trưởng ở đằng cuối nhà bếp của bà. Bà đang vừa lầm bầm to tiếng một mình vừa thảy hành băm vào một cái chảo kêu xèo xèo. Charlie gọi bà, nhưng không thấy đáp lại, nó bèn chạm nhẹ vào cánh tay bà. Bà bếp trưởng hoảng hồn thét lên và chiếc thìa gỗ bà đang cầm bay vèo lên không.



“Sao con làm thế?” Bà nói lạc giọng.



“Tại bà không nghe con gọi, bà bếp trưởng. Bà đang nói chuyện một mình.”



“Thế à? Ồ, ta đã nói gì?” Bà bếp trưởng vuốt thẳng tạp dề và vặn nhỏ ga lại.



Khi nghe kể về thức ăn mà hai thằng nhỏ đã phải è cổ ra nuốt, bà bếp trưởng bình tâm lại một chút và hứa chúng sẽ có súp thịt trong bữa trưa. “Sau đó có thêm bánh hấp phết táo nữa,” bà thêm. “Ta đã làm một ít trong lò để cho nhà Bloor.”



“Bà đã ở đâu vậy, bà bếp trưởng?” Billy hỏi. “Thường bữa sáng nào bà cũng ở đây kia mà.”



“Ta đã ở nhà một người bạn. Có thể nói là suýt nữa ta đã không trở lại. Nhưng bạn của ta đã thuyết phục ta phải trở lại. Bà ấy là người rất nhạy cảm.” Bà bếp trưởng mở vung ra và thảy vào chảo một nắm lá gia vị.



“Ưmm!” Charlie nhắm mắt lại. Mùi thơm từ cái chảo bay ra mê hồn đến độ nó tưởng như mình đang ăn món đó.



“Chưa xong đâu.” Bà bếp trưởng xua hai thằng bé trở lại căng-tin. Vài phút sau bà xuất hiện với hai tô súp thịt bốc khói.


“Không dễ vậy đâu,” Billy nói, trong khi Charlie dướn vượt lên trước. “Anh biết đấy, Dagbert đã làm tất cả tụi em điên tiết hết cả lên. Nó gọi em là đồ dị dạng.”



Hạt Đậu kéo Benjamin chạy theo Charlie. Benjamin thở hùng hục. “Mình nghĩ bồ nên xin lỗi.”



“Hừ, không đâu.” Charlie bước nhanh hơn nữa. “Chuyện thế là thế.”



Không đúng. Charlie rất muốn xin lỗi Emma và Olivia. Có điều nó không nghĩ ra cách làm điều đó như thế nào. Nó quên phéng là mình phải đi qua khúc cuối ngõ Nhà Thờ Lớn trên đường tới đường Piminy.



Tiệm sách cô Ingledew lọt thỏm trong ngõ Nhà Thờ Lớn, thuộc dãy nhà gỗ nơi bóng râm nhà thờ lớn đổ xuống. Charlie nhìn khắp con hẻm rải sỏi dẫn tới tiệm sách và quầy quả rẽ vào đường Piminy. Nó thắc mắc Olivia có ở trong tiệm sách với Emma hay không. Tụi nó đang làm gì? Giúp dì của Emma, cô Ingledew, không sai. Chắc là đang phân loại sách, quét bụi những bìa sách bọc da, chùi những gáy sách mạ vàng bao những trang sách mong manh. Hoặc tụi nó đang tưởng tượng một kế hoạch trừng phạt Charlie vì những lời mà nó không bao giờ nói?



Về mặt nào đó Charlie đã đoán đúng. Emma và Olivia đang ở trong tiệm sách thật, đang tưởng tượng một kế hoạch – chỉ có Olivia tưởng tượng thì đúng hơn. Nhưng kế hoạch đó chẳng liên quan gì đến Charlie. Mà liên quan tới một thử nghiệm.



Tài phép của Olivia vẫn còn bí mật đối với gia đình Bloor. Chỉ bạn bè cận kề nhất mới biết con nhỏ là người tạo ảo giác. Trong đám biết điều này, vài đứa, gồm Charlie, nghĩ việc con bé bị phát giác chỉ là vấn đề thời gian thôi, bởi vì Olivia là diễn viên. Nó ham vui, và nỗi mê thích dùng tài phép của mình để đùa chơi thỉnh thoảng lại chế ngự, điều khiển nó.



Chính sự ám ảnh về chim của Emma đã gợi cho Olivia nảy ra một ý tưởng vô cùng nguy hiểm. Emma có thể bay, nhưng trước tiên nó phải biến thành chim mới bay được. Nó hay vẽ chim, sưu tập lông chim, và mê mải ngắm hình những loài chim đã bị tuyệt chủng từ lâu. Buổi sáng hôm đó Emma chợt nảy ra trong óc về một loài chim mà nó chưa bao giờ nghe nói đến. Loài chim này ở trong một quyển sách xưa quý hiếm nhất của dì nó.



Emma cầm quyển sách vào phòng trong và để mở ra trên đầu gối. “Hãy tưởng tượng nào, Liv! Mình giống như con chim này, mỏ dài thật dài, chân to thật to, nhưng đôi cánh lại bé xíu đến nỗi không thể bay lên khỏi mặt đất.”



Olivia nằm thẳng cẳng trên chiếc ghế xô pha thoải mái của cô Ingledew. Nó đặt tay sau gáy và nhắm mắt lại. “Tớ hình dung được con chim thần đó rồi,” nó cười nụ. “Bây giờ tớ tạo con chim đó ra cho bồ thấy nhé, Em? Rồi bồ biến thành con chim đó. Thế là có hai con, và tụi mình sẽ để cho dì của bồ đoán, xem con chim nào là Emma, con nào là ảo ảnh?” Nó mở mắt ra, ngồi bật dậy, vỗ hai tay vào nhau. “Đúng. Tụi mình làm đi.”



Emma nhìn xoáy vào nhỏ bạn, nhíu mày lo lắng. “Tớ không nghĩ vậy đâu, Liv. Vậy không đúng.”



“Có gì mà không đúng? Đi, Em!”



“Tụi mình không nên... sử dụng tài phép làm vui.”



“Thì sao? Ai nói thế?”



“Đó là điều tụi mình ai cũng phải biết,” Emma cứng cỏi.



Olivia ngả ịch xuống trở lại đống gối nệm. “Hừ, tớ sẽ làm.”



“KHÔNG, Liv. Làm ơn đừng. Coi chừng bồ...”



Nhưng con chim thần đang thành hình kìa. Khi Olivia ngoái nhìn qua vai, một mảng lông sặc sỡ hiện ra trên không trung phía sau đầu nó. Emma bất lực nhìn đám lông bắt đầu vào đúng vị trí trong hình hài của một sinh vật đẹp mê hồn. Đôi cánh rộng, cái đuôi xòe ra duyên dáng, mắt đen như hạt huyền, và cái mỏ sắc màu cam.



Chưa hài lòng với hình dáng con chim, Olivia cho nó bật ra những tiếng cúc cu dài khi nó ép qua khung cửa che rèm vào trong tiệm.



Đúng lúc đó chuông tiệm sách rung kính coong, cửa mở ra và một phụ nữ cao to xuất hiện ở ngưỡng cửa.



Cô Ingledew đang dán tựa sách trên quầy chợt ngước lên, bối rối. Hai sự việc cùng xảy ra với cô một lúc. Một, đó là cô đã quên khóa cửa tiệm vào ngày Chủ Nhật và hai, một con chim quái lạ vừa sổng chuồng khỏi sở thú và tìm đường vô tiệm sách của cô. Tình huống thậm chí còn hoang mang hơn khi Emma chạy ù vào phòng, thét to. “Ối không!” Nghe vậy con chim biến phụt vào không khí.



“Á,” vị khách lạ lên tiếng. “Một ảo giác. Thú vị quá.”



Không nghi ngờ gì về vị khách không được chào đón kia. Nhìn mái tóc đen rức, lông mày cao hình cánh cung chắc hẳn Emma sẽ biết đó là bà cô Venetia của Charlie. Nhưng giờ mụ mới thay đổi làm sao! Không còn váy bẩn thỉu và áo khoác thùng thình như dạo gần đây nữa. Người phụ nữ này mặc veston màu hoa tử đinh hương rất lịch duyệt, cổ áo viền lông thú, với đôi giày bốt cũng viền lông thú ở cổ.



“Ta vừa mới lấy chồng,” người phụ nữ nói, đi xuống ba bậc thang vô trong tiệm. Giờ ta là bà Venetia Shellhorn. Ta chuẩn bị đi hưởng tuần trăng mật đây.”



“Vậy ư?” Cô Ingledew nói, không một mảy may tươi tỉnh lên.



“Đúng. Và ta muốn đưa...” bà cô Venetia ngoái nhìn ra sau vai. “Chúng đâu rồi?” mụ ta cấm cẳn.



Cửa mở ra, rất chậm.



“Các con của ta,” bà cô Venetia vẫy bàn tay đeo găng ra cửa.



Đứng ở bậc thang trên cùng là hai đứa trẻ ẻo lả, thương tâm nhất mà Emma từng thấy.