Charlie Bone 7: Charlie Bone Và Cái Bóng Xứ Badlock

Chương 16 :

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Cung điện của cái bóng



Cuộc hành trình của Billy vô xứ Badlock thật chớp nhoáng. Mới phút trước nó còn đưa tay sờ hình vẽ Hạt Đậu thì phút sau cái gì đã chộp lấy cánh tay nó, kéo nó về phía trước, băng qua tiếng chó ông ổng, chui vô một màn sương mù cuồn cuộn xung quanh tựa như là mưa khói. Lướt, lướt qua một khu rừng toàn cây màu bạc và những hồ nước loang loáng. Có đoạn nó bay bổng lên và có lúc nó lại trôi là đà trên một con đường mềm như lụa bên dưới bàn chân trần của nó.



Và bây giờ, nó ở đây, đứng trước một cánh cửa cao như cột đèn, một cánh cửa sắt trồi ra toàn đinh tán nhọn, nhỏ nhuyễn. Những đầu đinh phủ dọc theo chiều dài, viền hết chiều ngang phần đỉnh và phần đáy của cánh cửa. Không có tay nắm, cũng chả có ổ khóa, điều này khiến nó suy đoán rằng cánh cửa được vận hành bằng một thiết bị nhiệt tinh vi hoặc bằng phép thuật.



Ngay khi Billy nhận ra mình chưa chết, thậm chí không đau gì hết, và có thể thở dễ dàng như trước khi bị bức tranh bắt cóc, thì nó liền quên phéng nỗi sợ hãi mà để cho trí tò mò xâm chiếm. Nó lùi lại để nhìn cho rõ hơn tòa nhà ăn hút vô sương mù ở hai bên cánh cửa sắt. Trông giống như một pháo đài nhưng lại có những bức tường hình như bằng đá hoa cương, trơn sáng bóng – loại đá hoa cương đen nhờn một lớp dầu trên bề mặt do không khí ẩm. Ở lưng chừng các bức tường có nhiều khoen sắt đóng hẳn vô đá hoa cương. Chắc chừng hai mươi cái khoen, và trong mỗi khoen đều có một ngọn đuốc đốt bằng dầu hắc đang cháy.



Xứ Badlock không hề giống như Charlie đã mô tả. Có gió, đúng vậy, Billy có thể nghe thấy tiếng rít u u đằng xa, nhưng gió không thổi tới chỗ nó đang đứng đây. Mái tóc trắng mượt của nó vẫn không bị rối bung, mặt và hai bàn tay nó ấm lên nhờ những ngọn lửa phía trên.



Billy quay lại và nhận thấy nếu lùi thêm một bước nữa là nó sẽ té chết tươi, bởi vì nó đang đứng sát mí một vách đá dựng đứng. Bên dưới nó là một đồng bằng mênh mông trải ngút ra tận đường chân trời, và đằng đó có những ngọn tháp kỳ lạ hẹp tí chĩa lên trời. Hai bên đồng bằng, những ngọn núi xám trơ trụi nhô bất tận vô những đám mây màu tím trôi luộn cuộn muôn hướng, cả phía trên đỉnh núi lẫn dưới mặt đất hoang vu.



Một giọng nói trơn tuột như vải xa tanh, “Xong rồi, Billy Raven!”



Billy quay phắt lại, kêu hốc lên. Cánh cửa sắt đã mở ra không một tiếng động từ hồi nào và đứng đó là gã đàn ông mà trước kia Billy đã trông thấy một lần, nhưng từ đó diện mạo của hắn đã khắc sâu trong ký ức nó.



Tên thầy bùa Harken, cái bóng, chỉ cao trung bình nhưng ở y toát lên một ấn tượng là y cao hơn nhiều. Với bộ tóc đốm vàng bóng rực mọc bắt đầu từ trán và đôi mắt mới nâu đó thoắt cái lại xanh màu ô-liu đậm. Gò má của y nhô cao, đua tranh với cái mũi cong vồng ngạo nghễ. Y mặc toàn nhung xanh ngọc lục bảo.



Miệng Billy há hốc ra, cổ ngậm lại mà không xong.



“Vào đi.” Tên thầy bùa đứng lùi lại và làm điệu bộ cúi chào mai mỉa. “Chào mừng đến cung điện của ta.”



Billy đứng đông cứng tại chỗ. Phía bên kia lão bá tước, nó có thể thấy một hành lang dài trải thảm lông thú. Đèn bấc rừng rực từ những bức tường đá hoa cương đen và, tệ hại trên hết thảy, đối với Billy, trần nhà treo tòn teng những cái đầu của bao nhiêu loài thú, những đôi mắt thủy tinh của chúng vẫn còn nguyên nỗi kinh hoàng về khoảnh khắc bị bắt giữ.



“Cái gì làm mày ảo não thế, nhóc? Vào đi.” Bá tước Harken chộp lấy tay Billy và kéo nó vô trong. Cánh cửa sắt im lặng đóng lại đằng sau nó.



“Theo ta,” bá tước ra lệnh.



Billy không có lựa chọn nào khác. Cố bước nhẹ hết sức lên những tảng da gấu, da cọp vẫn còn lông mềm mại, nó theo chủ nhà đi xuôi hành lang dài đậm mùi chết chóc đó, mắt hơi nhắm lại để khỏi phải trông thấy những cái đầu thú tít ở trên cao mà nó buộc phải đi bên dưới. Đúng lúc ấy thì Rembrandt lên tiếng.



“Billy, tụi mình đang ở đâu đấy, chuyện gì xảy ra?” Con chuột lít chít.



Bá tước Harken quay phắt lại. “Cái gì đó?”



Billy đã quên khuấy là Rembrandt đang ngủ sâu trong túi áo pijama của nó. Không hề nghĩ ngợi, nó nói liền: “Con chuột của tôi, thưa ngài.”



“Đó là cái gì?” bá tước Harken chất vấn.



“Tôi đã nói ngài rồi, con chuột của tôi,” Billy lặp lại.



“ĐÓ LÀ CÁI GÌ?” Bá tước rống gầm lên.



Billy chợt vỡ lẽ rằng bá tước không hiểu chuột là gì, hoặc sao đó mà quên rồi. Nó nhẹ nhàng lôi Rembrandt ra khỏi túi áo và chìa con chuột ra.



“Úi” Rembrandt chít. “Đây là tin xấu, Billy.”



“Ta đã quên mất,” bá tước gù gừ. “Bọn ta không có chuột ở đây. Lính của ta đã ăn hết sạch bách không còn con nào, cách đây lâu, lâu, lâu lắm rồi. Đưa nó cho ta.”



“Không.” Billy ôm chặt Rembrandt vô ngực. “Tôi không thể. Tôi không thể sống mà không có Rembrandt. Tôi không đưa!”



Bá tước có vẻ ngạc nhiên. “Mày có tinh thần đấy, nhóc. Tốt, mày cứ giữ cái con có tên kỳ quặc đó, nếu nó chế ngự mày. Nó vừa mới nói xong. Đừng có chối. Tao biết mày hiểu ngôn ngữ của nó. Nó đã nói gì vậy?”



Billy ngẫm nghĩ câu hỏi đó có phải là hỏi bẫy hay không. Không chừng lão bá tước này có thể nói được tiếng thú vật. Billy quyết định nói dối một phen. “Nó bảo chúng tôi đang ở một nơi tốt, thưa ngài.”



Bá tước dòm Billy vẻ nghi hoặc. “Nó nói thế à? Hừ. Ta phải tin mày... chỉ lúc này thôi.” Hắn quay đầu bước tiếp, đôi giày mũi nhọn cong vút của y khẽ rít trên lớp lông thú. Và Billy theo sau, cảm thấy tội lỗi vì tấm thảm kiểu vầy rất ấm và thoải mái cho những ngón chân trần của nó.
“Món khác,” bá tước ra lệnh.



Billy cố nghĩ tới cái gì mà tất cả mọi người, thuộc mọi thời đại, phải ăn. “Bánh mì,”nó nói.



“Bánh mì,” bá tước gầm vang.



Cái khay của anh đầy tớ cao lập tức đầy ắp những ổ bánh mì đen. Dorgo tóm lấy đĩa của Billy, chạy như bay về phía ông cầm khay bánh mì, trút tất cả lên đĩa của Bily và chạy trở lại chỗ nó.



“Nữ bá tước?” Lần này giọng bá tước giăng kín hội trường. Cần phải nói to như thế mới vọng tới được chỗ bà vợ.



Bà Lilith tuôn ra một danh mục những cái tên lạ hoắc. Bá tước nhắc lại, và khay của anh đầy tớ cao đầy ắp những loại quả trông kỳ lạ - hay đó là rau? Đầy tớ của bà Lilith vù đi nhận chúng và đem về cho bà chủ.



Edgar chọn hạt kê, nhộng, bắp cải và pho mát, trông thấy ghê ghê. Matilda chọn súp cá hành bốc mùi thơm phức, còn bá tước chọn thực đơn giống như của bà vợ.



Billy cảm thấy ngượng ngập vì đĩa mình toàn bánh mì đen. Nó không biết phải ăn như thế nào.



“Bữa tối?” Rembrandt chít đầy hi vọng.



Trước khi tiếng chít của Rembrandt trở nên quá ồn, Billy chộp lấy một ổ bánh. Dùng tay xé bánh ra, nó ráng xoay xở bỏ vô cái túi trên đùi nó một mẩu vừa ăn.



Khi Rembrandt chít lên cám ơn, Matilda cười khúc khích, Edgar trừng mắt nhìn em gái và nói: “Thằng nhóc đem thức ăn cho một sinh vật. Đó là lỗ mãng và phung phí.”



Bá tước Harken phẩy tay thô bạo. “Không vấn đề, Edgar. Nó là khách của chúng ta.”



Edgar cau có lùa một muỗng đồ ăn vô miệng. Nhưng từ đầu bàn bên kia, nữ bá tước vẫn tiếp tục nhìn Billy trừng trừng, thậm chí kể cả trong khi bà ta đang nhai những món không thể đọc được là món gì. Trông bà ta cứ như không có tim, Billy ước gì mình ở cách xa hàng ngàn dặm, trở về ngôi nhà của Charlie Bone, cho dù ở đó nó không được chào đón.



Món thứ hai khả quan hơn món thứ nhất nhiều. Matilda khuyên Billy chọn lê ướp rượu. Chúng ngon tuyệt, đúng như cô bé hứa hẹn.



Sau bữa ăn Dorgo dẫn Billy trở lại phòng riêng của nó. Anh đầy tớ nhỏ lật khăn trải giường ra, để lại bộ đồ ngủ, thắp cho Billy một ngọn nến đặt trong một cái đĩa kim loại để trên nóc rương. Billy thay bộ pyjama của nó và lên giường. Nó nhìn ngọn nến cháy thấp dần, thấp dần và tự hỏi mình có bao giờ ngủ được hay không. Nó mệt thừ nhưng đầu óc nó không ngừng lang thang tới những căn phòng sáng lấp lánh bên dưới. Charlie sẽ tới đón mình, nó nghĩ, bởi vì Charlie có thể chu du vô tranh.



Bên ngoài, tiếng gió rên rỉ băng qua cánh đồng. Và rồi át trên tiếng gió, vọng đến tiếng những bước chân nặng nề, kéo lê dưới nền đất. Kèm theo tiếng chân là tiếng loảng xoảng hỗ loạn của những sợi xích sắt.



Billy bật dậy khỏi giường và ló đầu ra hành lang. Dorgo đang ngồi ngoài cửa. Đầu anh ta đổ về trước, nhưng không hề ngủ.



“Gì thế chủ nhân, thưa?” Dorgo hỏi.



“Tôi nghe thấy gì đó? Những bước chân.”



“Người khổng lồ đó, chủ nhân, thưa.”



“Người khổng lồ?”



“Họ mang ông ta vào hầm ngục. Ông ấy xấu. Phải bị phạt.”



“Ông ta đã làm gì?”



Dorgo thở dài. “Ông ta đã giấu một thằng nhóc từ tương lai, giống như ngài.”



Charlie, Billy nghĩ. Tổ tiên của Charlie là một người khổng lồ.



“Ngủ đi, chủ nhân.” Dorgo nói.



Billy bước lùi trở vô phòng và đóng cửa lại.