Charlie Bone 8: Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ

Chương 2 : Chúa tể grimwald tái xuất

Ngày đăng: 15:23 19/04/20


Charlie Bone vừa mới ngủ thiếp đi. Giờ đột nhiên nó không còn ngủ được nữa. Có tiếng người lao xao trong mảnh sân gạch bên dưới. Charlie phóng khỏi giường, băng vèo qua phòng ngủ chung tới ngó ra cửa sổ. Có hai người đàn ông đang tiến về phía cánh cổng chính của học viện. Một gã Charlie nhận ra là Norton Cross, tên gác cửa quán cà phê Thú Kiểng. Hắn đang nửa kéo, nửa khiêng một người nhỏ con hơn hắn, đội mũ rộng vành cắm một chiếc lông chim rũ quặt ra sau.



"Khiếp!" Charlie lầm bầm. Nó không thể thấy gương mặt của gã đàn ông bên dưới mũ sùm sụp đó, nhưng tiếng hắn rên rỉ mới kinh khủng làm sao. Charlie mở cửa sổ, chỉ hí hí, để có thể nghe ngóng xem chuyện gì đang diễn ra.



"Suỵt!" Norton rít. "Ngài đánh thức toàn trường dậy bây giờ, thưa ngài."



Hai gã đàn ông leo lên những bậc thang tới cánh cổng chính và Norton nhấn chuông. Loáng sau, có tiếng loảng xoảng ầm ĩ và một trong hai cánh cổng mở ra. Gã Weedon, gã sai vặt, đứng ở ngưỡng cửa. Đó là một gã to con bậm trợn, đầu trọc lóc, lúc nào cũng đeo bộ mặt nhăn nhó.



"Tôi tưởng ông ta không được ra ngoài chứ" gã Weedon nói.



"Ngài muốn xem thành phố". Norton kéo kẻ đồng hành của hắn qua cánh cửa.



"Ông ta bị sao vậy?" gã Weedon hỏi, quạu quọ dòm thanh gươm lượn rập rềnh qua người gã.



Cánh cửa đóng lại trước khi Charlie có cơ hội nghe lời đáp của Norton. Nhưng sau đó sự chú ý của nó bị lôi kéo về phía phái đoàn thứ hai đang tới. Ba người phụ nữ đi trên lối vào uốn khúc và băng qua mảnh sân gạch. Cái mũi nhọn của mụ Grizelda Bone dẫn đầu. Mụ này là bà nội của Charlie. Mấy bà em của mụ, Eustacia và Venetia, bám theo sát gót. Cả ba đều cao nhẳng, mắt đen hí rị, và lông mày đậm như chổi sể. Tóc nội Bone trắng xoa đến giật mình, tóc mụ Venetia đen, còn tóc mụ Eustacia thì pha trộn giữa hai màu.



Charlie nhìn bọn họ leo lên cầu thang, bà nội của nó hơi chệch choạng trên đôi giày ống cao gót. Khi bà ta nhấn chuông, mụ Eustacia chẳng hiểu sao lại bất giác ngó lên cửa sổ chỗ Charlie đang đứng.



Charlie thụt vô trong bóng tối. Eustacia hay khoe khoang là mụ có tài tiên tri bằng thần giao cách cảm, mặc dù Charlie chả tin tẹo nào. Tài phép của mụ thuộc loại ba hồi thịnh, ba hồi suy. Đêm nay chắc là nó đang tới hồi phát tiết.



Như thế đồng lõa với những sự kiện dưới kia, cánh cửa phòng ngủ chung đột nhiên bật mở và Charlie bị chụp gọn vô tròng ánh sáng từ hàng lang rọi vô. Mụ giám thị, bà em thứ ba của nội Bone, Lucretia, đứng lù lù ở khung cửa, hạch hỏi, "Mày làm gì mà ra khỏi giường hả"



"È, hít thở chút không khí" Charlie lí nhí.



"Không khí? Hừ, ở đây có đủ không khí để dộng đầy buồng phổi cho cả ngàn đứa, huống hồ là mười hai thằng".



"Thế à?" Charlie ngó qua mười một thằng nhỏ đang ngủ đằng sau nó. Không đứa nào thức giấc, dẫu cho mụ giám thị chẳng mảy may cố hạ thấp giọng xuống.



"Trở lại giường!"



Không chờ Charlie tuân lệnh, mụ giám thị đã đóng ập cửa. Tiếng bước chân của mụ rời xa hấp tấp đến nỗi Charlie tưởng tượng chắc chắn mụ đang chạy trên hàng lang. Suốt hai năm ở trong học viện này, nó chưa bao giờ biết là bà cô Lucretia của nó lại chạy. Đêm nay hẳn là mụ đang chạy trốn khỏi cái gì đó rất khó chịu, hoặc là mụ đã trễ một cuộc gặp vô cùng quan trọng.



Ai mà đi triệu tập họp hành vào cái giờ khuya lắc khuya lơ thế này? Chỉ có lão Ezekiel thôi, Charlie kết luận. Ở tuổi một trăm lẻ một, lão Ezekiel chẳng thèm phân biệt này và đêm. Buổi sáng lão hay ngủ khò trong chiếc xe lăn, buổi chiều lão đọc mấy thứ sách bùa chú gớm ghiếc. Chỉ đến ban đêm là bộ óc ác hiểm của lão mới thật sự sống dậy, và khi đó thì đau thương sẽ xảy ra với bất kỳ ai không ăn khớp với những kế hoạch của lão.



Charlie đang định đóng cửa sổ lại thì một cái mùi kỳ cục trôi đến chỗ nó: một mùi muối pha lẫn tảo biển lờm lợm cứ lẩn vẩn nơi đầu lưỡi. Lại cái mùi kinh khủng quen thuộc. Ngó xuống mảnh sân gạch nó không ngạc nhiên khi thấy một bóng người kềnh càng hiện ra ở cổng vòm. Kẻ này mặc áo khoác vải dầi và mang ủng dài của ngư dân. Hắn di chuyển trên sỏi bằng những sải bước loay xoay quái đản, như thể hắn đang đi trên boong của một con tàu.



Charlie phóng vội trở lại giường. Tuy nhiên trước khi nó leo lên giường, có một tiếng lầm thầm khản đặc từ chiếc giường ngoài chót, cùng hàng giường với nó.



"Cửa sổ. Đóng cửa sổ lại."



Charlie kéo khăn trải giường trùm kín đầu. Nó hầu như không chịu nổi cái việc nhìn Dagbert Endless, chứ đừng bảo là nói chuyện với thằng ấy. Dagbert vẫn chối đây đẩy về vụ nó đã dìm chết Tancred, nhất mực cho rằng đó chỉ là một tai nạn. Thậm chí cả ông hiệu trưởng cũng tin câu chuyện của nó. Cả trường đều bảo Tancred Torsson vô tình té xuống phòng Điêu khắc và bị chết đuối do nước đổ ra từ một cái vòi hỏng. Charlie thừa biết. Dagbert là kẻ dìm chết người. Thậm chí nó còn hay phô trương tài phép của mình. Thế nhưng cả thằng đó lẫn gia đình Bloor đều không biết rằng Tancred đã được cứu sống. Bạn bè của Tancred dự định cứ để sự việc tiến triển theo cách như thế.



"Cửa sổ. Đóng cửa sổ lại coi". Lần này giọng nói lớn hơn. Cái mùi tảo biển từ bên ngoài trộn lẫn với mùi cá tanh tưởi bên trong do Dagbert thỉnh thoảng bốc ra.



Charlie bịt mũi lại, vẫn nằm yên.



"ĐÓNG CỬA SỔ LẠI!"




Tiếng cạ ghế, tiếng dậm chân, tiếng lê bước vang lên rầm rầm khi khán giả nhổm khỏi ghế và tiến ra cửa. Vài kẻ tò mò liếc dòm cái khối màu trắng. Một tiếng động phát ra từ đó. Hình như là tiếng sóng. Loáng thoáng tiếng thủy triều chồm lên một bãi biển sỏi đá.



"Nhân thể" Manfred gọi, cố ý nhằm đánh lạc hướngg bọn tọc mạch, "tiệm sách Ingledew. Hãy để mắt tới nó. Cứ xông hẳn vô nếu các người có thể. Sách cũ là nơi cất giấu tốt."



Lũ khách khứa lao nhao với nhau một hồi rồi tếch khỏi phòng.



Sáu người vẫn còn ngồi lại ở hàng ghế đầu: Grizelda Bone cùng ba bà em ngồi ở dãy bên này, Norton Cross và tay kiếm sĩ ở dãy bên kia.



"Mang cho chúng tôi một ít trà!" tiến sĩ Bloor ra lệnh khi gã Weedon thò đầu vô qua cánh cửa.



"Cả bánh quy nữa," lão Ezekiel thêm. "Và bánh nướng!"



"Cho tất cả ạ?" gã Weedon hỏi trong khi đếm đầu người.



"Tất cả" tiến sĩ Bloor nói. "Mười một, chính xác"



Càu nhàu một tiếng nóng nảy, gã Weedon rụt đầu ra khỏi phòng và đóng cửa lại.



"Cuối cùng, những người ưu tú" lão Ezekiel cười xởi lởi với sáu vị khách nán lại. "Nào bây giờ chúng ta bàn luận một cách...toàn diện hơn. Ashkelan Kapaldi, chào mừng ngài đến đây".



Tay kiếm sĩ đứng lên và cúi đầu thật sát, trước là về phía sân khấu sau là qua nội Bone và các em bà. Tấm thân của hắn là cả một khối sắc màu sặc sỡ, với áo chẽn xanh lá cây, cổ rộng viền đăng ten, thêu màu vàng chóe. Cổ tay áo cũng được may bằng đăng ten, còn chiếc quần ống túm thì may bằng vải nhung xanh lá cây. Đôi ủng da rộng miệng cao gần tới bắp đùi, cộng thêm với dải khăn thắt lưng màu đỏ tía quấn quanh eo. Lại còn cả một vòng dây nịt da rộng bản vắt chéo qua ngực hắn, suốt từ vai xuống tận eo dưới, treo lủng lẳng trên đó là một bao kiếm màu xanh lá cây đậm.



"Trong thế kỉ thứ mười bảy" lão Ezekiel rao giảng "Ashkelan Kapaldi là tay kiếm vĩ đại nhất châu Âu."



"Tay kiếm sĩ?" nội Bone thắc mắc.



"Thế kỉ mười bảy..." bà cô Eustacia lẩm bẩm một mình.



"Ta đã làm đấy" mụ Tilpin mở mồm. "Nói cho ngay, chính ta đã làm điều đó với sự trợ giúp của tấm gương và của con trai ta, Joshua, thằng bé được ban phép từ tính. Cùng nhau" mụ ngoáy bàn tay một vòng tròn nhỏ, "bọn ta đã kéo Ashkelan Kapaldi ra khỏi bức tranh vẽ ông ấy. Và giờ, ông ấy ở đây...cùng thanh gươm của mình!"



Nghe vậy tức thì Ashkelan rút thanh gươm ra khỏi bao và buông cho nó lao về phía bốn chị em. Cả bốn bà nhất tề bật dậy, nhất tề lạc giọng, và thanh gươm dừng lại, khẽ đu đưa trên mũi của nó. Cái vết rạch sâu duwosi nền nhà bóng loáng đập tan mọi hồ nghi về hiệu lực của thanh gươm.



"Đừng sợ, các quý bà" Ashkelan nói khi thanh gươm trôi lùi trở về phía hắn. "Thấy đó, nó tuân theo mệnh lệnh của ta". Hắn chộp lấy thanh gươm và cà thọt tiến lại gần lão Ezekiel. "Ta được bảo dằng, tâu đức ngài, dằng mọi đứa trẻ được ban phép thuật ở phần thế giới lày ở trong phạm vi những bức tường lày suốt cả tuần".



"Đúng vậy", tiến sĩ Bloor thừa nhân.



"Không phải" Ashkelan tuyên bố dõng dạc. "Ta có tài nhận biết được kẻ được ban phép thuật, ta đã trông thấy một đứa, chưa tới một giờ kể từ đó, ở trong sân phía trước cơ ngơi lày của các người. Một thằng bé cao trung bình, một thằng mất dạy, do thám, phát gớm. Và nó được bảo vệ, tâu đức ngài, bởi không ai khác ngoài chính Hiệp sĩ Đỏ".



"Hiệp sĩ Đỏ," lão Ezekiel nín thở, chồm hẳn người về phía Ashkelan. "Hiệp sĩ Đỏ, ngài nói gì thế?"



"Đúng. Bệ cưỡi của hắn là một con ngựa trắng" tay kiếm sĩ tiếp "Áo chùng của hắn màu đỏ, chùm lông chim bay phất phới trên mũ hắn cũng màu đỏ. Hắm đã làm ta bị thương, các ngài à. Hắn đã làm ta bị thương và ta sẽ không thể bỏ qua chuyện lày".



"Dĩ nhiên là không, thưa ngài" lão Ezekiel nói, lúc này người lão gần như gập làm đôi, hơi thở lọc khọc trong lồng ngực. "Dù cho tên hiệp đó là kẻ nào, thì chúng ta cũng sẽ kết liễu hắn."



"Trước tiên là thằng bé" Manfred nói lạnh tanh. "Chúng ta không thể để mọt thằng bé được ban phép thuật đi lang thang ngoài phố mà chúng ta không biết".