Châu Chấu Đỏ

Chương 2 :

Ngày đăng: 09:11 19/04/20


Năm mươi năm trước, ông Cửu ba mươi sáu tuổi, anh trai ông Cửu – ông Tứ bốn mươi tuổi. Ông Tứ là một thầy lang, bây giờ ngót nghét chín mươi mà trông vẫn khỏe mạnh, là người duy nhất trong làng chứng kiến tận mắt cảnh châu chấu chui lên khỏi mặt đất. Đó là ngày mồng 4 tháng 4 âm lịch, ngay từ sáng sớm ông Tứ đã đi thăm một người mắc chứng bệnh đau bụng khan ở làng bên. Ông ta cưỡi con lừa nhỏ màu tro rất nổi tiếng của mình, mặc một chiếc áo khoác mỏng, đội chiếc mũ có hình chiếc vỏ dưa, trên đó có dính chiếc tua đỏ, một chiếc quần bông cũ trên cổ có thắt một chiếc khăn rộng khoảng hai ngón tay, chân mang đôi giày bố. Ông Tứ đã dùng đến hai mươi chiếc kim châm cho người bệnh. Giữa hai lông mày của người bệnh này có một nốt ruồi đen to tướng với một nhúm lông ngắn. Người nhà bệnh nhân nấu miến và rót rượu cao lương chiêu đãi ông Tứ, món nhắm là cà ướp muối, cá hố nướng, tôm kho củ cải trắng. Cơm rượu no say, ông Tứ trèo lên lưng lừa. Mặt trời gần đứng bóng làm ông đầu choáng mắt hoa, toàn thân nóng nực ngứa ngáy vô cùng. Con lừa bước xiêu vẹo trên những bờ ruộng gập ghềnh. Lâu lắm rồi không hề có mưa, trên con đường đất, bụi phủ một lớp dày cả gang tay, ngập đến gần đầu gối lừa. Lúc này, ông Tứ đang đi từ phía tây của chiếc đầm lầy rộng năm nghìn mẫu để sang phía bắc. Đầm lầy im lìm lấp lóa, bùn màu đỏ quạch, cò đang tha thẩn kiếm ăn trong bùn, ông Tứ phát lo vì những chú cò kia sẽ lún sâu xuống dưới bùn mà chết. Mùa thu năm ngoái, cỏ dại và lau lách đứng im lìm trên đầm lầy, khô cháy vàng ruộm, thi thoảng mới có một vài mầm lá xanh nấp mình kín đáo dưới màu vàng cháy; những chú chim trắng như tuyết quần đảo trên không trung như những mảnh vải nhung trắng chấp chới trong gió.



Khi dừng chân đại tiện bên bờ đầm, ông Tứ phát hiện ra châu chấu đang lổm ngòm bò lên khỏi mặt đất. Con lừa đang đứng im lìm bên vệ đường. Vẫn chưa đến giữa trưa nhưng cái nóng đã hầm hập, đất đen khô cháy như đang phát tán ra những luồng ánh sáng trắng, cỏ và hoa màu đang sống dở chết dở. ông Tứ bước xuống một đám lúa mạch ven đường thân lúa mạch ỉu xìu chẳng khác nào râu tóc người đã chết, trên mặt đất đông kết một lớp váng phèn lẫn muối, đạp lên kêu rạo rạo, vỡ tan, một mùi nồng nồng chua chua khô khốc từ dưới đất xông lên. Trên đồng không có lấy một bóng người. Lấy chiếc túi thuốc trên vai xuống, mở thắt lưng, ông Tứ ngồi xổm xuống đám ruộng cao lương.



Ông Tứ có thói quen đại tiện rất lâu, thói quen này cả làng ai cũng biết. Ông thường nói rằng, ngồi xổm trên đồng ruộng mênh mông mà đại tiện là một kiểu hưởng thụ lạc thú trong đời người, nếu không vì vạn bất đắc dĩ phải làm chuyện ấy ở nhà thì ông đã cưỡi lừa đi thẳng ra đồng, thật xa. Ông cũng rất thích nuôi chim nhưng không thích họa mi mà chỉ thích sơn ca, mặc dù tiếng hót của sơn ca không thể bì được với họa mi. Ông còn bảo, mỗi lần đại tiện chính là cơ hội để cho con người tu thân dưỡng tính! Ông ngồi yên, mắt nhắm hờ, cúi đầu lắng nghe tiếng gió xuân rì rào trong ruộng lúa, lắng nghe cái nóng hầm hập từ dưới đất xông lên. Ông Tứ còn chọn mùa để ra đồng đại tiện, điều này cũng nên nói rõ. Ông tinh thông âm dương ngũ hành, hiểu rõ nóng lạnh ấm mát. Mùa xuân, dương khí tăng, âm khí giảm, ánh nắng nhiều nhưng không hại, đây là thời gian ra đồng đại tiện tốt nhất trong năm. Mùa hạ nóng bức, mặt đất ẩm ướt, ruồi muỗi vo ve, không khí đặc quánh, ra đồng đại tiện mùa này chẳng có lợi gì cho sức khỏe. Mùa thu trời cao khí trong, gió thu se lạnh vốn là thời kỳ ra đồng đại tiện tốt nhất, nhưng phía nam vùng Đông Bắc Cao Mật lại tiếp giáp với đầm lầy, phía bắc có sông, phía đông là đồng cỏ chăn nuôi, phía tây lại là vùng trũng; hình thành ở đây một vùng tiểu khí hậu đặc biệt nên trong mùa thu, mưa như trút nước, nước ở chỗ trũng ngập đến đầu gối mênh mông đọng đến mấy ngày liền, ông Tứ chỉ còn biết đại tiện ở nhà, ngay trong hố phân xanh. Mùa đông gió lạnh như dao cắt thịt cắt da, giọt nước vừa rơi xuống đã hóa thành băng, chỉ có những kẻ ngu mới rời khỏi nhà để làm chuyện ấy.



Sơn ca bay liệng vòng trên không trung hót véo von, những làn điệu du dương khiến tâm hồn con người cảm thấy thư thái và sảng khoái vô cùng. Nếu là mưa thuận gió hòa và trong khung cảnh mùa xuân, tiếng hót sơn ca dễ dàng kích động người ta nghĩ đến những chuyện tình lãng mạn mà dữ dội. Những lúc ấy, ông Tứ lắng nghe tiếng sơn ca trên trời cao, bao nhiêu là suy nghĩ thầm kín trong đầu cuồn cuộn dâng như nước thủy triều, lúc thì gầm gào vọt lên cao, lúc thì nhẹ nhàng thanh thoát chìm xuống, như hoa sen hồng đua nở, như hoa sen trắng tỏa hương, muốn nói những lời nhả ngọc phun châu trong mùi hương nực mũi, ông như đã thấy được Phật tâm của mình… Nghe ông Tứ giảng giải về những cảm thụ vô cùng tinh tế và diệu vợi của ông khi ra đồng đại tiện trong mùa xuân, tôi liên tưởng đến môn Yoga của những đại sư Ấn Độ và phương thức tĩnh tọa tham thiền của những cao tăng Trung Quốc, chỉ cần trong tâm có thành ý là mọi vật đều trở nên thông suốt. Tất cả đều rất thần thánh, tất cả đều rất trang nghiêm, tất cả những hoạt động đều có thể vượt qua hình thức ngoại tại để đạt đến tầm cao của triết học, của tôngiáo, của Phật!



Ông Tứ ngồi xổm giữa đồng đại tiện trong mùa xuân, mới thoạt nhìn chỉ là đại tiện, kỳ thực không chỉ là đại tiện mà ông đã thể hiện được bao nhiêu là tư tưởng cao vời. Chân khí hỗn nguyên đang tuần hoàn thông suốt trong cơ thể ông, đôi mắt ông Tứ khép hờ, nhìn tất cả mọi vật nhưng không nhìn thấy mọi vật, ông đã hoàn toàn vất bỏ mọi hình hài của vật thể để nhìn thấy một trạng thái tinh thần trông giống như bùn, màu đỏ sậm đang dung hợp và tồn tại giữa đất trời. Lướt qua thảm lúa mạch thấp lè tè, lướt qua những bông lúa mạch vàng vàng, hai con gà gô mập mạp đang đuổi nhau bay là là trước mắt ông, đôi cánh ngắn cũn cỡn như không nâng nổi thân mình quá nhiều thịt nên dáng bay của chúng trông rất vụng về, chậm chạp. Lông cánh của đôi gà gô rất dày, bóng loáng, có màu chủ đạo là màu tía, điểm xuyết là những vạch trắng, hai quầng ánh sáng ấm áp có màu đỏ sậm bao quanh chúng làm thành một ảnh ảo mang tầm tư tưởng. Trong không gian khô khốc vang vọng tiếng đập cánh phành phạch của chúng, tiếng thì thầm của con mái đang đắm say trong xuân tình: – Được không hả anh? Em không bao giờ quên anh! Trước khi ông Tứ phát hiện châu chấu chui lên khỏi mặt đất, nghe xong những lời cầu khẩn của con mái trong miên man tình yêu như vậy, trong khoảng thời gian ngưng lặng sau đó, suy cho cùng thì ông đã nghĩ đến điều gì? Ông đang nghĩ đến một người đàn bà đẹp bé nhỏ ở làng Lưu Sa Khẩu (quê hương của lão già có con họa mi trên thành phố), người đàn bà ấy đang đứng tựa vai vào khung cửa, không, bà ta đang đạp chân lên ngạch cửa, cả thân hình dựa hẳn vào khung cửa, miệng đang nhai một cọng cỏ, sắc màu của hoa hạnh đang tràn trề trên gương mặt bà ta, đôi mắt sáng ngời như những vì sao nhấp nháy trong đêm xuân trong trẻo, phát xuất những ánh nhìn đắm đuối ái tình, ấm áp và cuồng loạn. Theo hồi ức của ông Tứ, lúc nào bà ta cũng mặc một chiếc váy màu đỏ sậm, có lẽ là bà ta đã may đến mấy chiếc váy giống hệt nhau như thế này để luân phiên thay đổi, sau này ông Tứ đã có một phản xạ có điều kiện: Hễ mỗi khi ông trông thấy một phụ nữ mặc váy màu đỏ sậm là ông nổi… cơn động tình. Trong thời kỳ cách mạng văn hóa, trên bức tường nhà tôi đã từng dán một bức họa rất thịnh hành thời ấy, trong bức họa là một người đàn bà mặc váy màu sậm, tay giơ cao chiếc đèn đỏ, đôi mắt hạnh tròn vo nét mặt trông rất giận dữ, khuôn ngực phía bên phải – cũng có thể là bên trái nhô cao một cách không bình thường. Ông Tứ tay cầm chiếc gậy trúc loang lổ cáu bẩn đến nhà tôi uống trà đêm, chiếc đèn dầu vàng vọt chiếu lên tường đen xỉn của nhà tôi khiến nó trở nên ấm áp hơn. Tiếng thu se sắt bên ngoài cửa sổ, ánh trăng trùm xuống nhân gian, những con mèo đang thời kỳ động tình đang kêu gào tìm kiếm bạn tình vang lên khắp đó đây, đuổi nhau trên mái ngói, những chiếc móng sắc cào xuống ngói làm chúng kêu lên rin rít. Vùng Đông Bắc Cao Mật vốn không có trúc nhưng ông Tứ cũng là một con người có cá tính độc đáo, không biết kiếm từ đâu về mấy đốt trúc già găm lung tung bốn năm chỗ trong vườn nhà tôi ở phía bắc giếng nước, phía đông chuồng gà, phía tây vò nước và phía nam cửa sổ. Mấy đốt trúc sinh trưởng rất nhanh, chẳng mấy chốc đã thành mấy khóm nhỏ, gió thu đang lạo xạo thổi qua lá trúc, bóng trúc gầy gầy thoáng hiện mơ hồ, gầy guộc qua khung cửa sổ, tiếng kêu của con chim cuốc non tôi bắt ngoài đám ruộng đậu về thả vào lùm trúc yếu ớt. Ông Tứ nhấp một ngụm trà, mắt nhìn vào tường, những ngón tay run rẩy, vành môi rưng rung, mũi chun mắt nhắm, điệu bộ giống hệt như chuẩn bị hắt hơi. Chúng tôi hết hồn, không biết ông Tứ mắc phải chứng bệnh lạ lùng gì. Người cùng ông Tứ đến uống trà đêm ở nhà tôi là ông Cửu đứng dậy, lệch chiếc đầu trông rất phong độ như đầu gà trống như đang đánh giá mức độ quái dị biểu hiện ở ông Tứ. Sau đó, ông Cửu đi vòng ra phía sau ông Tứ, nhìn theo hướng nhìn của ông Tứ và bỗng nhiên đại ngộ. Ông Cửu vỗ vỗ vào gáy ông Tứ, cười lớn, nói:




Hai âm thanh vừa thoát ra khỏi cuống họng thì ông Tứ đã khựng lại vì ông đã nghe rất rõ tiếng rào rào dưới chân mình. Những đụn châu chấu đã nở toác ra và vạn vạn con châu chấu bắt đầu văng đi khắp nơi. Hình như chỉ trong vài phút, bọn châu chấu đã tích tụ được năng lực để nhảy, để búng, để bay, mặt ông Tứ liên tục bị chúng đập vào và bám chặt trên đó. Con nhảy, con bay, có con vừa bay vừa nhảy, có con vừa nhảy vừa bay. Mặt ông Tứ ngứa ngáy, ông đưa tay xoa mặt. Châu chấu non rất mềm, tay ông vừa chạm vào là chúng đã nát ra nên mặt ông nhầy nhụa, đưa tay về trước mắt để nhìn, cả một bàn tay đầy xác châu chấu. Trong miệng ông lại có một vị chua thua và ngay lúc ấy, một suy nghĩ táo tợn xuất hiện trong đầu óc ông, suy nghĩ này lại tiếp tục xuất hiện về sau này để bổ sung cho bộ não vốn rất thông minh của ông, hoàn thành một sáng tạo vĩ đại. Đương nhiên đó là chuyện sau này, còn lúc ấy, ông Tứ kéo quần lên và chạy nhanh về phía con đường. Khi chạy trên đám lúa mạch, ông vẫn thấy rất rõ thấp thoáng dưới mặt đất là những đụn châu chấu đang tù từ trồi lên và nở bung ra. Khắp nơi là châu chấu,châu chấu bò dưới đất, châu chấu bám trên thân lúa mạch,châu chấu bám trên cỏ, lổn nhổn, đỏ bầm. Kể ra những sinh linh cá thể nhỏ bé màu đỏ sậm này trông cũng dễ coi, ôngTứ đưa con châu chấu đang bám trên ngón tay ông lên ngang mắt quan sát. Nó còn bé lắm, đáng yêu lắm, hiền lành lắm… Tạo ra được một sinh linh hoàn chỉnh như thế này, đúng là chỉ có thượng đế ở trên cao. Toàn thân ông Tứ ngứa ngáy vô cùng vì rất nhiều châu chấu đang bám trong da thịt ông, ban đầu ông còn phủi, còn gãi nhưng sau đó thì phủi và gãi cũng không xuể nữa đành bỏ mặc chịu trận. Con lừa đã nghe tiếng bước chân của chủ, mở mắt nhìn và ve vẩy chiếc đuôi. Ông Tứ nói với nó:



- Diệt rồi! Thần châu chấu đã đến!



Dưới lòng mương cạn bên đường, một ụ châu chấu đang từ từ nở bung ra, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, hàng nghìn con châu chấu đã bò lổn nhổn trên đất, bám chi chít trên cỏ… Ông Tứ ngồi xuống, thò tay vốc một nắm. Sau này ông nói, hình như tay ông bóp phải bầu vú đàn bà, trơn trơn, mềm mềm, ngưa ngứa, nặng nặng khiến tay ông như muốn trụy xuống. Ông Tứ vẫn nắm chặt chúng trong tay và ngước nhìn mặt trời khô khốc lạnh nhạt ở trên cao rồi nheo mắt ngắm nhìn đầm lầy đang bốc khói. Ông thu hồi ánh mắt, nhìn con lừa đang đứng bên cạnh mình. Đôi mắt ông thẫn thờ, vô hồn nhìn những con châu chấu đang bị nắm chặt đến độ giập nát trong tay mình. Mấy chục con khác đang bò trên mắt ông. Những con còn lành lặn đang tuồn qua khe giữa các ngón tay ông bò ra, hình như mấy mươi sinh vật bé xíu ấy đang hợp lực lại đề buộc bàn tay ông phải nới lỏng ra. Ông cảm thấy lòng bàn tay mình tê dại, mỏi nhừ và nhột nhạt. Ông suy nghĩ một lát rồi mở bàn tay, một nhúm châu chấu rơi xuống đất, vừa mới chạm đất, chúng đã vọt đi khắp bốn phía. Con lừa nhảy chồm lên, chiếc đuôi vung vẩy thật mạnh nhưng rất nhiều châu chấu đã bám vào chân nó. Hai chân trước của con lừa như mới dẫm bùn đỏ dưới đầm lầy lên. Ông Tứ cưỡi lừa quay về làng. Trên quãng đường gần mười dặm ấy, ông ngồi rất vững chãi trên lưng lừa, con lừa cũng chẳng quan tâm gì đến những gì vừa xảy ra, những bước đi của nó vẫn rất đều đặn và chắc nịch, những khoảnh lúa mạch hai bên đường nhẹ nhàng chạy qua mặt ông, những thân cây cao lương cao khoảng nửa thước lặng lẽ vượt qua. Lá cây cao lương đen đen, trên bề mặt đầy những lông tơ. Lâu nay không mưa, cao lương đang cúi đầu cố gắng hút những chút nước cuối cùng trong đất để chống chọi với cái chết đang đến gần. Cánh đồng mênh mông đang rì rào những âm thanh kỳ lạ, và ông Tứ biết đó không phải là âm thanh của gió thổi qua ruộng lúa mạch và ruộng cao lương, mà đó chính là âm thanh của châu chấu đang trồi lên khỏi mặt đất.



Ngồi trên lưng lừa, ông Tứ trầm ngâm suy nghĩ về lai lịch của bọn châu chấu. Chúng sinh ra từ trong lòng đất, điều này ông chưa hề nghe thấy trong những câu chuyện liên quan đến châu chấu lưu truyền xưa nay. Ông nhớ lại, năm mươi năm vế trước, bố ông – một thanh niên lực lưỡng khỏe mạnh đã từng chống chọi với một nạn dịch châu chấu, nhưng đó là dịch châu chấu bay từ nơi khác đến, che kín bầu trời Đông Bắc Cao Mật rồi lại bay đi. Nghĩ ra chuyện này, ông Tứ mới vỡ lẽ rằng: châu chấu sinh từ đất này chính là hậu duệ của đàn châu chấu bay cách đây năm mươi năm về trước!