Châu Chấu Đỏ

Chương 6 :

Ngày đăng: 09:11 19/04/20


Sau khi bắt được gian phu dâm phụ, ông Tứ tiếp tục xem bệnh bốc thuốc, đồng thời làm được ba việc lớn. Việc thứ nhất là thu tiền của bà con mua gạch, mua gỗ, mua ngói chuẩn bị mọi thứ để chuẩn bị xây miếu; việc thứ hai là viết đơn bỏ vợ, đuổi bà Tứ quay về nhà cha mẹ đẻ; việc thứ ba là đêm nào cũng đến thôn Lưu Sa Khẩu tìm người đàn bà góa trẻ đẹp thích mặc quần áo màu đỏ ấy.



Từ làng tôi đến thôn Lưu Sa Khẩu cần phải vượt qua dòng Vận Lương Hà gần như cạn khô vì hạn hán lâu ngày. Có một cây cầu bắc ngang qua sông, trụ cầu và dầm cầu bằng gỗ tùng, mặt cầu lát bằng những viên đá màu trắng. Lâu lắm rồi không hề được tu sửa, trụ cầu dầm cầu đã mục, mặt đá nham nhở loạn xị bát nháo, lồi lồi lõm lõm. Mỗi khi xe trâu, xe ngựa hoặc người qua lại trên cầu là chiếc cầu đong đưa, trụ dầm kéo cà kẽo kẹt, sẵn sàng đổ sụp xuống bất kỳ lúc nào. Đêm nào cũng thế, ăn cơm tối xong, khi bầu trời đã rực rỡ đầy sao là ông Tứ đặt chân lên chiếc cầu để đến với người đàn bà của ông. Con đường đã trở nên quá quen thuộc đối với ông, nhắm mắt ông Tứ cũng có thể đi đến điểm cần đến. Nhà của người đàn bà ấy nằm ngay bên chân con đê, ba gian nhà lá thấp tè, cô độc. Bà ta có nuôi một con chó giống Tiểu Ba, khi tiếng chân ông Tứ vang lên ngoài đầu ngõ là con chó Tiểu Ba đã thân thiết sủa vang lên, lúc ấy người đàn bà cũng lao ra khỏi nhà. Những chuyện liên quan đến người đàn bà này cũng như gia cảnh của bà ta, tôi biết không nhiều lắm. Bà ta làm quen với ông Tứ như thế nào, rồi từ chỗ làm quen đến chuyện đầu ấp tay gối, dính chặt với ông Tứ như keo như sơn, chỉ có mỗi một mình ông Tứ biết, nhưng ông cũng chẳng muốn nói cho tôi biết, do vậy mà tôi dùng trí tưởng tượng để hình dung:



- Ông à, cho dù ông không nói cháu cũng đã biết – Tôi nói.



- Thằng cháu chưa mọc lông này biết gì về ông? – ông Tứ hỏi.



- Cháu biết ông làm cách nào để câu được bà ấy!



Ông Tứ lắc lắc đầu, cười buồn.



- Ông Tứ à – Tôi nói – Ông hãy nghe đây, xem thứ cháu nói có đúng không nhé – Ông chỉ có hai cách để làm quen với bà ấy. Một là, ông đến Lưu Sa Khẩu để xem bệnh cho bà ấy; hai là, bà ấy tìm đến hiệu thuốc của ông để xem bệnh. Tính khả năng của cách thứ nhất là không nhiều lắm, bởi vì bà ấy còn rất trẻ, khó có thể mắc bệnh nặng đến độ đi không được. Ngay cả việc ông đến nhà bà ấy để xem bệnh, lúc ấy ông bố chồng tỉnh tỉnh mê mê của bà ấy vẫn còn. Lão này giống như một con chó trung thành, thay cho đứa con trai đã phạm tội bỏ trốn sang Quan Đông giữ miếng thịt tươi trong nhà. Lão bố chồng này sau khi biết được chuyện ông và cô con dâu tằng tịu với nhau nên bệnh chứng trở nặng mà chết! Ông Tứ ơi, ông hãy nhớ lấy, lão già đó chết một cách không rõ ràng minh bạch gì cả! Như vậy cháu có thể loại trừ khả năng thứ nhất này, thế thì bà ấy đến hiệu thuốc của ông mà thôi. Ông Tứ ơi, cách bố trí bên trong hiệu thuốc của ông là như thế này: Bốn gian phòng nhỏ, ba gian phía đông thông nhau, hai chiếc tủ thuốc kê theo hướng đông tây, bên cạnh là một quầy bốc thuốc nhỏ bằng gỗ, bên dưới trống rỗng, cúi người thấp một tí là có thể chui vào bên trong, đương nhiên chỉ cần cúi người là có thể chui ra. Một chiếc cối giã thuốc bằng sắt trông giống như một chiếc thuyền nhỏ đặt trong góc phòng, một chiếc dao bàn để xắt thuốc đặt bên cạnh chiếc cối. Trên chiếc cối có một con lăn mỏng bằng sắt, sau này khi ông dùng xác châu chấu nghiền nát để làm thuốc viên lừa mọi người, chính ông đã dùng con lăn này để nghiền châu chấu đúng không? Căn phòng ở phía tây có hai cánh cửa ra vào mỏng tang, bên trong phòng có một chiếc giường. Gần với quầy thuốc, trong góc phòng phía tây nam ông còn đắp một chiếc lò nhỏ, miệng hướng về phía bắc, ở trên đó thường xuyên có một chiếc nồi sắt ông dùng chiếc nồi này để sắc thuốc, cũng không biết bao nhiêu là thang thuốc giả hiệu đã được sắc trong chiếc nồi này. Trong nhà rất sạch sẽ, giường chiếu luôn luôn gọn gàng ngăn nắp. Trong phòng còn có bình trà tách trà, bình rượu cốc rượu, hiệu thuốc cũng là nơi ông chẩn bệnh, hoặc ít nhất nó cũng gần là như thế, cháu nói có đúng không? (Ông Tứ gật đầu nhè nhẹ). Thôi được rồi, vở kịch đã bắt đầu, sân khấu là hiệu thuốc, diễn viên chính là ông và người đàn bà trẻ nhưng có lẽ cũng nên bố trí một vài vai diễn quần chúng.



Đó là Vào một buổi sáng tháng tư. Những ngọn gió xuân nồng ấm tựa như những sợi tơ bông thổi đến, mặt trời sáng đến lóa mắt, hoa nở trắng như tuyết cây trên hòe già trong sân, mùi thơm đến độ tức thở, hàng nghìn cánh ong say sưa với mật hoa, sân vườn đầy ong như những vì sao băngvút qua vút lại. Trên tường nhà ông có khoét mấy lỗ hổng, lỗ hổng được đậy lại bằng những miếng ván mỏng và đó chính là những tổ ong mật, chúng đang từ những lỗ hổng này bay ra bay vào, chuyên cần tích tụ mật ong.



Trong cái mùa xuân ấm áp, khí hậu trong lành, không gian đầy sức sống như vậy, ai cũng biết, kể cả ông, đó là môitrường tốt nhất để con người dễ dàng kích động xuân tình. Ông không thể nào quên được câu ngạn ngữ: Đàn bà tháng tư nhấc không nổi ngọn cỏ. Tất cả đàn bà như mỏi mệt, không có chút sức lực nào, đôi mắt ngây dại thẫn thờ, trông ai cũng có dáng dấp của một Dương Quý Phi vừa rời khỏi bồn tắm. Thân thể của họ như căng lên trông chờ một bàn tay ve vuốt của đàn ông, đất đai phì nhiêu nhưng hạn hán trên thân thể họ chờ những cơn mưa móc từ cánh đàn ông. Những điều ấy ông cứ dùng những kiến thức về âm dương ngũ hành của ông mà suy nghiệm sẽ dễ dàng nhận ra.



Do vậy, cháu mới bố trí cuộc gặp gỡ đầu tiên của ông và cô ấy vào một buổi sáng tháng tư, gió xuân hây hẩy, ánh mặt trời lấp lóa…



Tôi chăm chú nhìn vào gương mặt đang rất tập trung tinh thần nghe tôi nói của ông Tứ. Trên mặt ông không có biểu hiện của trạng thái tình cảm nào, thi thoảng ho lên một tiếng – không phải ho vì nhu cầu sinh lý, mà là muốn che đậy một trạng thái tâm lý nào đó – Này, kể nữa đi! – ông nhắc.



- …Ông ngồi trên chiếc ghế vuông phía sau quầy thuốc, trên tay là cốc trà đỏ sậm màu đất, chậm chạp nhấp từng ngụm nhỏ. Ông đã bắt mạch kê toa xong cho mấy bệnh nhân. Họ móc từ những chiếc túi tồi tàn ra những đồng bạc nhàu nát đưa cho ông. Ông cầm lấy và vất vào một chiếc hộp gỗ đặt bên cạnh. Hiệu thuốc của ông nằm bên cạnh đường cái, ánh mắt của ông vượt qua bức tường thấp vây quanh khoảnh sân hẹp và dừng lại trên con đường đất đỏ bụi bặm để quan sát người và xe cộ đi lại trên đường; ngắm nhìn chim bay trên trời cao và thú vật chạy nhảy dưới đất trong những làn gió xuân ấm áp. Hương thơm của các loài hoa dại trên đầm lầy hòa quyện với mùi thơm của bông lúa mạch bảng lảng trong đất trời. Ông đang cố gắng xua đuổi thứ mùi hoa hòe quá nồng, xua đuổi thứ mùi thơm đậm đặc của loài hoa thược dược mọc san sát hai bên đường kia ra khỏi khứu giác của mình để tham lam hít thở thứ mùi hương hoang dại thoang thoảng ấy. Đúng như người ta thường nói: Hoa nhà không thơm bằng hoa dại! Không yêu gà nhà chỉ yêu gà hoang là một quy luật nghìn đời, đàn ông ai cũng thế cả, là một bản năng có tính di truyền. Ông đang nhâm nhi tách trà và cảm thấy tâm hồn mình trống rỗng vô vị. Ông căm ghét mùi đồng gỉ phả ra từ miệng của bà, bà lại từ chối nhai rễ cỏ tranh. Mùi vị quái ác từ miệng bà phả ra khiến ông ghét lây cả thân thể bà, do vậy mà ông không có chút cảm hứng nào khi tiếp xúc với thân thể của bà. Những nhu cầu chung đụng khiến nhiều khi bà rên lên những tiếng quái dị trong lúc tỉnh cũng như lúc ngủ mê càng làm ông thêm chán ghét. Những lúc buộc lòng phải chung đụng thể xác, hình như ông không có chút cảm xúc nào, thậm chí là phản cảm… Trong thời khắc ấy, người đàn bà ấy đã xuất hiện trên đường.



Người đàn bà ấy đã xuất hiện trên đường, lòng bàn tay đang bóp chặt chiếc cốc trà của ông bỗng nhiên túa mồ hôi dầm dề. Ông quan sát chiếc váy màu đỏ sậm của bà ấy và cảm thấy đó là một ngọn lửa u uất đang bùng cháy. Bà ấy đưa tay đẩy cánh cổng khép hờ, đôi chân nhẹ nhàng tiến đến. Ong mật liệng vòng trên đầu tóc, bà ấy đưa bàn tay có cầm một chiếc túi vải màu đỏ nho nhỏ lên như muốn xua đuổi đàn ong. Một con ong bị chiếc túi đập trúng rơi xuống đất, đôi cánh đập liên hồi nhưng vẫn không nhấc nổi mình lên khỏi mặt đất. Ông đặt cốc trà xuống, chống tay lên quầy đứng dậy, tim ông đập thình thịch, mắt ông trân trân nhìn gương mặt đỏ gay, tập trung vào cái miệng rộng có đôi môi đỏ sậm màu hoa hồng và đôi mắt ướt lúng liếng của người đàn bà. Rồi đôi mắt ông lướt xuống phía dưới, dừng lại ớ bộ ngực và những dục niệm trào dâng trong lòng khiến đôi mắt ông như muốn lột sạch quần áo trên người bà ấy. Theo thói quen, ông sẽ nhìn đôi bàn chân của bà ấy một cách soi mói, chân bà ấy mang đôi giày vải thêu hoa trông rất sạch.



Bà ấy đã bước vào trong hiệu thuốc, sợ sệt cung kính kêu một tiếng “tiên sinh”. Ông chẳng thèm trả lời, chỉ chăm chú nhìn bà ta. Bộ dạng của ông lúc ấy trông thật đáng sợ: đôi mắt liếc xéo phóng ra những tia nhìn vàng rực như lửa; miệng há hốc, nước dãi chảy xuống đến tận dưới cổ. Ông tổ à, lúc ấy trông ông chẳng khác nào một con chó đực đang phát dục tình, hận một điều là không nuốt được bà ấy vào bụng thôi. Bà ấy lại rụt rè kêu lên một tiếng “tiên sinh” nữa ông mới giật mình thoát khỏi cơn mê, tạm thời tỉnh lại. Bà ấy bảo, thân thể bà ấy đau nhừ, khó chịu, ông bảo bà ấy ngồi xuống chiếc ghế rất cao đặt bên ngoài quầy thuốc. Bà ấy ngồi xa quá, ông bảo bà xích lại gần, gần thêm tí nữa. Bà ấy riu ríu vâng lời, xích lại gần hơn. Bụng bà ấy tì hẳn vào thành của quầy thuốc, đôi chân của bà ta phía bên dưới cũng vươn vào đến giữa quầy. Ông cảm thấy hai đầu gối của mình đang chạm vào hai đầu gối tròn tròn của bà ấy, ông thấy mặt bà ấy có vẻ căng thẳng, đỏ rần lên, tiếng thở bà ấy rất gấp khiến hai bầu vú như hai con thỏ hoang đang thời động dục nhô lên thụp xuống liên tục. Tay ông túa mồ hôi dầm dề, ông cắn chặt môi, tạm thời cố gắng ép nhưng suy nghĩ tà niệm xuống, cầm chiếc gối độn bằng hạt kê đặt lên giữa mặt quầy, bảo bà ấy đặt cổ tay lên đấy. Cổ tay bà ấy để ngửa, năm ngón tay nhỏ và thon run lên nhè nhẹ. Ông dùng ba ngón tay đặt lên cổ tay bà ấy. Những ngón tay ông vừa tiếp xúc với cổ tay bà ấy thì đầu óc ông bỗng nhiên biến thành một quả bóng căng đầy hơi, trương phềnh lên, hình như tất cả những con ong mà ông nuôi lúc này đã chui vào hai tai ông. Lý trí ông bắt đầu mất, ba ngón tay ấn trên cổ tay có làn da căng mọng của bà ấy bắt đầu run rẩy, ông cảm thấy tâm trí mình đang bay lên, phiêu diêu trên chín tầng mây nhưng cơ thể ông thì lại chìm xuống dưới đáy đầm lầy trong làn nước đỏ quạch và sâu thăm thẳm.



Bà ấy rút tay về, đứng dậy, lí nhí: Tiên sinh, tôi về đây. Ông lặng người trong một giây và trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy ông cảm thấy có một chút xấu hổ. Trong mơ mơ hồ hồ, ông nhận ra là mình đang vi phạm chức trách thần thánh của một thầy thuốc, đồng thời, ông còn nhận ra là lòng tự tôn của mình đã bị tồn thương, thậm chí còn có một chút hối hận.



Ông ho lên một tiếng để che giấu sự lúng túng. Ông bảo, tôi bị trúng gió, đầu óc hơi choáng váng một tí. Ông nhấp một ngụm trà nguội, đề nghị bà ấy ngồi xuống. Ông đã lấy lại được sự bình tĩnh thường ngày, chăm chú vào công việc bắt mạch cho bà ấy. Mạch trên cổ tay bà ấy đập rất mạnh và rất gấp gáp. Bắt mạch xong tay trái thì chuyển sang tay phải, ông đã nhận ra phần nào bệnh tình của bà ấy. Hơn một nửa đàn bà trong mùa xuân thường mắc phải chứng máu nóng, có thể trị bằng hồng hoa, bạch thược và vài vị thuốc nữa. Ông bảo bà ấy thè lưỡi ra cho ông xem, ông chăm chú quan sát bựa lưỡi của bà ấy. Chiếc đầu lưỡi thật dài và cũng thật đỏ đang động đậy liên tục trong miệng, ông nhận ra trên mặt lưỡi có một điểm vàng vàng. Luồng hơi từ miệng bà ấy phả ra thoạt ngửi dường như có mùi ngao sò tươi nhưng ngửi kỹ thì nhận ra nó có mùi lan, mùi cầy hương. Ông vô cùng ham muốn được ngậm cái đầu lưỡi ấy, chỉ hận là không được cắn đứt nó để nuốt vào bụng.



Xem bệnh xong, ông bắt đầu kê đơn và bốc thuốc. Ông không hiểu là do đâu mà trong khi bốc thuốc, ông luôn luôn cảm thấy lo lắng là mình sẽ cân thiếu thuốc, thậm chí là thiếu một vị thuốc nào đó. Tình yêu thật là vĩ đại, thật là vô tư! Ông tổ ơi, khi một người thầy thuốc mà yêu một bệnh nhân thì bệnh nhân ấy sẽ được hưởng những ưu đãi đặc biệt, đúng không?



Bà ấy lôi từ trong chiếc túi màu hồng ra một xâu tiền đồng, lúc ấy tiền đồng còn lưu hành không nhỉ? Ông không cần phải trả lời cháu đâu, chuyện này chẳng có ý nghĩa gì hết. Ông từ chối tiền thuốc của bà ấy, nói là chờ đến khi bà khỏi bệnh hẳn mới lấy tiền. Ông đã bốc cho bà ba thang thuốc, mỗi thang sắc trong hai lần vào sáng sớm và buổi tối. Ba ngày sau, bà sẽ phải quay lại chỗ ông.



Khi bà ấy sắp đi, cổ họng ông như nghẹn lại, ông muốn nói ra một câu rất nóng bỏng nhưng nó mắc cứng ở cổ họng. Ông chỉ còn biết đứng lặng, dùng ánh mắt nhìn theo đưa tiễn đôi mông núng nính nhún nhảy đi ra khỏi cổng trong gió xuân hây hẩy và ánh nắng mặt trời vàng vàng. Bà ấy đột ngột xuất hiện và đột ngột biến mất, ông thống khổ nuốt một ngụm nước bọt, cổ họng ông như có một ngọn lửa đang thiêu đốt, ông dốc ngược ấm trà lên để cho tất cả những giọt nước trà lạnh trong ấy chảy vào cổ họng khô khốc của mình.



Buổi sáng ngày thứ tư cũng vẫn là một buổi sáng không khí mùa xuân tràn trề sức sống. Những cánh én đã quay về từ phương nam đang ngậm những viên bùn màu đỏ từ đầm lầy về làm tổ trên các mái hiên nhà. Ngày ấy, thưa ông, ông dậy rất sớm và có chú tâm ăn mặc chải chuốt khác hơn so với thường ngày. Chân ông mang đôi giày vải đế màu trắng, một đôi vớ cũng màu trắng kéo đến tận bắp chân; một chiếc quần đen ống chẽn, trên người khoác một chiếc áo choàng dài, cạo râu nhẵn thín, vất chiếc mũ hình quả dưa vẫn đội thường ngày để thay vào trên đầu mình chiếc mũ len màu cà phê. Nói tóm lại, trông ông chẳng khác nào một đại tiên sinh làm việc trong nha môn quan phủ. Thấy ông ăn mặc khác thường ngày, bà Tứ đưa cặp mắt hoài nghi nhìn ông dò xét, ông bảo hôm nay có một vị quan lớn trên huyện về khám bệnh, nghiêm khắc yêu cầu bà không được đến hiệu thuốc. Yêu cầu của ông là thừa, bởi lâu nay bà Tứ không hề dám đặt chân đến đó. Ông à, ông chưa kịp làm chuyện bậy bạ thì lòng ông đã trở nên hoảng loạn mất rồi!



Ông ngồi phía sau quầy bốc thuốc bồn chồn chờ đợi. Ong mật đang quần đảo dưới nắng xuân làm thành những đường cong rất mềm mại. Ông không thể hình dung là bà ấy sẽ xuất hiện trước mặt ông với nét mặt tươi cười hay là sầu muộn, bỗng nhiên ông nhận ra rằng ông đã quên mất gương mặt bà ấy, những ấn tượng mà bà ấy để lại trong tâm trí ông vô cùng linh loạn mơ hồ. Ông có thể nhớ được đôi mắt ươn ướt, cái đầu nho nhỏ và vành môi màu đỏ sậm, nhưng để tổ hợp tất cả những cá thể ấy trở thành một khuôn mặt chỉnh thể thì ông đành chịu, tất cả đều mờ mờ ảo ảo ông bị nhấn chìm trong một dung dịch màu đỏ sậm, đó chính là màu của chiếc váy mà ngày ấy bà đã mặc, cái thứ màu đặc quánh chẳng khác nào bùn nhão màu đỏ sậm trên đầm lầy.



Buổi sáng sớm, ông đã quên mất là mình cần phải nhai rễ cỏ tranh. ông cảm thấy hai hàm răng mình đang có một lớp gì đó rất bẩn, do vậy ông vơ vội một nhúm cỏ tranh nhét vào mồm nhai lấy nhai để.



Gần trưa, bà ấy đã xuất hiện trong sân. Kiểu cách xuất hiện của bà ấy thiếu hẳn sắc thái lãng mạn. Ngay lập tức ông cảm thấy suốt cả buổi sáng chờ đợi chằng khác nào khỉ ngồi trên đống than của ông là hoàn toàn vô vị, thậm chí là rất buồn cười. Nghĩ thì như vậy, nhưng tim ông lại đập lên một cách điên cuồng va vào lồng ngực, nhúm cỏ tranh chưa kịp nát đã bị ông dồn xuống cổ họng và như một chiếc lò xo, ông đứng bật dậy, chiếc áo choàng dài vướng vào ấm trà trên bàn kéo nó rơi xuống đất vỡ tan thành trăm nghìn mảnh ông cũng chẳng thèm liếc mắt. Ông lật tấm ván ngăn cách giữa bên trong và bên ngoài quầy thuốc rồi như một đứa trẻ con, ông chạy ra cửa đón bà ấy.



Bộ quần áo trên người bà vẫn như ngày ấy, mồ hôi dầm dề chảy trên mặt, đôi giày lấm láp bụi đường, trông dáng điệu biết bà ấy đang có điều gì gấp gáp và lo lắng.



- Sao bây giờ cô mới đến? – Giọng của ông có vẻ hờn giận.



- Trong nhà có chút việc, không thể tránh được, để cho tiên sinh chờ đợi quá lâu – Vẫn cái giọng như có lỗi ấy lí nhí.



Ông đưa bà ấy vào bên trong quầy thuốc và bảo bà ngồi xuống chiếc ghế của mình, quýnh quáng định rót nước mời, lúc bấy giờ ông mới thấy những mảnh vỡ nằm lăn lóc trên sàn nhà.
Bà Tứ rời khỏi chiếc ghế, từng bước rất chậm rãi đi về phía ông Cửu, trên miệng là một nụ cười lạnh lẽo, nói: Lá gan của chú đâu rồi? Mùa hè năm ngoái, khi chú đến nhà và xông vào bóp vú tôi, gan của chú lớn lắm kia mà? Chú còn muốn bóp vú tôi nữa không? – Vừa nói bà Tứ vừa ưỡn ngực lên, đưa sát vào mặt ông Cửu – Muốn bóp muốn sờ thì cứ làm đi, đừng ngần ngại và cũng đừng sợ hãi gì cả. Anh Tứ của chú đã bỏ tôi rồi, ông ấy không có quyền quản lý tôi nữa đâu!



Gương mặt ông Cứu như đổ chàm, miệng lưỡi há ra cứng đơ, không nói được câu nào.



Bà Tứ nhóp nhép miệng, một bãi nước bọt từ miệng bà thật chuẩn xác bay vào cái miệng đang há ra của ông Cửu, rồi bà đưa tay giật lấy cái túi đang treo toòng teng dưới nách ông Cửu, mở miệng túi, hai chiếc giày to tướng của gã thợ hàn rơi xuống đất, một tờ giấy Tuyên màu vàng nằm trong tay bà Tứ.



Hai hàng nước mắt rơi lã chã trên khuôn mặt đầy son phấn của bà Tứ, tờ giấy màu vàng rung rung trong tay bà. Bà muốn mở tờ giấy ra, nhưng hình như tờ giấy không chiều theo ý bà, cứ cuốn lại mãi như muốn bảo vệ một bí mật gì đó rất gớm ghê.



Hai tay bà Tứ co giật mấy cái liền, tờ giấy đã bị xé nát và bị bà vo thành hai nắm. Đôi mắt bà sáng rực, nước mắt đã bị làn da mặt nóng như lửa của bà đốt nên đã khô queo, những vết hoen do phấn bị trôi đi đọng lại dưới cằm trông chẳng khác nào những giọt mưa đầu tiên điểm trên những lớp váng đất phèn khô quắt.



- Chú Cửu! - Giọng bà Tứ nghẹn lại, - Chú đã nhận của tôi một bãi nước bọt. Năm ngoái chú đã ôm tôi, sờ sẫm tôi, bóp vú tôi, bây giờ trước mặt anh chú, chú thành thật nói thử xem, miệng tôi có mùi gì không?



Rất khó khăn, ông Cửu nuốt bãi nước bọt qua cổ họng, đầu cúi rũ xuống. Hình như ông đang nhớ lại, đang vận dụng vị giác lẫn khứu giác để phân tích bãi nước bọt của bà Tứ, rồi ông ngẩng lên nói:



- Không có mùi vị gì, kể cả mùi đồng gỉ!



Bà Tứ vung tay ném những vụn giấy vào mặt ông



- Đồ con lừa! Những kẻ ăn cỏ trong gia tộc các người đều là đồ con lừa!



Nói xong, bà vung tay lên. Một cú tát như trời giáng đập thắng vào mặt ông Tứ, âm thanh khô khốc. Chiếc cổ ông Tứ lệch hẳn về một bên, một tràng âm thanh quái dị từ cuống họng ông phát ra như tiếng một quả bóng tròn lăn trên đất khô. Bà Tứ tiếp tục giơ tay lên định tát nữa nhưng hình như mọi sức lực của bà đã cạn kiệt, cánh tay bà đã tê dại nên những ngón tay của bà trượt dài trên cổ ông Tứ, trượt dài xuống bộ lễ phục màu lam mới mà ông Tứ mặc trên người để chuẩn bị tế thần rồi vạch một đường vòng cung trong không gian. Thân hình bà Tứ lảo đảo và ngã lăn ra đất. Những tưởng cú tát thứ hai của bà sẽ là một đòn đánh với sức mạnh kinh người của lòng căm hận nhưng lại biến thành một động tác vuốt ve dịu dàng trên thân thể ông Tứ.



- Anh Tứ! Anh đừng bỏ chị ấy nữa! - ông Cửu kêu lên.



Những thớ thịt trên cằm ông Tứ giật giật, ánh mắt phát ra những tia lửa màu xanh, ông lẳng lặng như những bước chân của loài hổ dữ đến trước mặt ông Cửu, hai tay thộp cổ ông Cửu, giúi một cái, lại lôi một cái, lắc bên phải, lại lắc bên trái. Trông bộ dạng ông Tứ lúc này có thể hiểu được là ông đang muốn nghiền thịt xương ông Cửu ra thành tương. Từ trong lồng ngực ông, những tiếng gầm gừ của loài hổ báo phát ra. Cổ ông Cửu bị hai bàn tay cứng như gọng kềm của ông Tứ thít chặt, không thở nổi, những tiếng khò khè nặng nhọc thi thoảng mới bật ra giống như tiếng kêu của loài chim hải âu đang tuyệt vọng quần đảo phía trên những ngọn sóng cao ngút trời giữa đại dương. Đầu óc ông Cửu sắp mụ mị, trước mắt ông màu đen đã ụp xuống. Trong những cơn giãy giụa cuối cùng, ông Cửu đạp loạn xạ vào bàn chân ông Tứ, đôi tay thì cào vào lưng ông ta. Hình như ông Tứ cũng đã tỉnh ra đôi chút, đưa miệng lên trán ông Cửu, cắn mạnh một miếng. Mười mấy vết răng xuất hiện trên trán ông Cửu làm thành một hình bầu dục rất đẹp và từ đường viền của cái hình bầu dục ấy, máu bắt đầu rịn ra.



Ông Cửu rú lên đau đớn, hai tay ôm lấy trán, không còn đủ sức để quẫy đạp nữa.



Một tiếng đồng hồ sau, ông Tứ xuất hiện ở buổi tế thần; ông Cửu dắt con lừa, ngồi trên lừa là bà Tử - đôi mắt sưng mọng vì khóc sướt mướt khi từ biệt những người đàn bà trong gia tộc. Con lừa chầm chậm lê những bước chân buồn thảm trên con đường đất đỏ, rời khỏi làng.



Nãy giờ, bà Cửu có thân hình cao gầy, bà Ngũ với thân thể mập mạp và bảy tám bà thân thiết nữa tụ tập dưới gốc cây liễu, lặng lẽ quan sát ông Cửu với khuôn mặt đầy máu đỡ bà Tứ quần áo lộng lẫy lên lưng con lừa. Bà Cửu và bà Ngũ thút thít khóc, những người đàn bà còn lại tuy không khóc thành tiếng nhưng mắt ai cũng đỏ hoe. Ông Cửu đã vứt đôi giày vốn được buộc rất kỹ bởi một sợi dây thừng vào một góc sân nhưng bà Tứ lại bước đến nhặt lên.Ban đầu, bà treo đôi giày vào cổ con lừa, mỗi bên mỗi chiếc, hình như con lừa thấy mình bị làm nhục nên cúi đầu rụt cổ lại. Sau khi leo lên lưng lừa, có lẽ vì hai chiếc giày cọ xát vào đầu gối, cũng có thể là để giảm bớt sức nặng cho cổ con lừa nên bà Tứ cúi người xuống, kéo lấy sợi giây thừng và quàng đôi giày vào cổ mình. Hai chiếc giày to tướng như hai chiếc huy chương vinh dự treo lủng lắng trước khuôn ngực nhô lên rất cao của bà Tứ. Lúc này, bà Tứ mới quay người giơ tay vẫy chào từ biệt đám đàn bà đang đứng khóc dưới gốc cây liễu trên miệng nở một nụ cười rực rỡ tựa hoa cúc mùa thu, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt rất tươi của bà trông như sương sớm trang điểm thêm cho vẻ rực rỡ của hoa. Trên lưng lừa, bà Tứ quay đầu nhìn, có cảm giác cái nhìn của bà đã xuyên thấu hết tâm trạng của những người đàn bà kia.



Bao nhiêu năm đã trôi qua, mẹ tôi lúc ấy chỉ là một cô dâu nhỏ bây giờ đã là một lão bà vẫn còn nhớ như in cái không gian chia ly đậm đặc chất bi hùng ấy, chín trăm chín mươi chín lần kể lại cảnh chia ly đậm chất điện ảnh ấy cho tôi nghe, khuôn mặt mẹ vẫn đầm đìa nước mắt, trong lời kể của bà lúc nào cũng phảng phất một niềm bái phục và yêu thương đối với bà Tứ.



Nếu men theo bờ đê với những hàng cây hòe cành lá um tùm mà đi về phía đông, ông Cửu và bà Tứ hoàn toàn có thể giống như hai con cá theo dòng nước chảy về đông mà nhập vào cánh đồng hoang mênh mông đầy châu chấu và không ai có thể phát hiện ra họ. Nhưng khi ông Cửu vừa dắt con lừa lên đến mặt đê, cũng là lúc bà Tứ ngồi trên lưng lừa quay người lại lần cuối cùng để vẫy tay từ biệt những người đàn bà vẫn còn trông theo ở phía xa xa, trong chớp mắt ấy, con lừa với tính cách quật cường cố hữu bỗng nhiên giật mạnh một cái, sợi dây cương trong tay ông Cứu tuột ra, nó lao xuống bờ đê và chạy thắng về phía nam trở lại theo con ngõ hẹp, đuôi vểnh lên biểu thị một sự kích động đến độ điên cuồng khiến những người đàn bà đứng dưới gốc liễu bị bất ngờ đến độ lặng người đi. Ngồi trên lưng lừa, lưng bà Tứ vẫn thẳng đứng, thân hình lúc thì nhô lên lúc thì thụp xuống nhưng chẳng có một dấu hiệu nào của sự hoảng sợ, trông bà lúc này chẳng khác gì một kỵ sĩ lão luyện.



- Cản nó lại! - ông Cửu gào lên.



Bà Cửu là người gan dạ nhất trong đám đàn bà, vọt thẳng ra đứng giữa đường, định chặn đà lao tới của con lừa. Chỉ thấy nó nhe răng ra, xông thẳng đến, vừa chạy vừa kêu như có ý dọa là sẽ húc bể bụng bà Cửu. Theo bản năng, bà Cửu nhảy sang một bên, con lừa vọt qua người bà với khoảng cách chỉ là gang tấc. Đôi mắt bà Cửu trợn tròn, miệng lưỡi cứng lại, không phải vì con lừa làm cho bà sợ hãi đến như vậy mà là gương mặt như Quan âm Bồ Tát của bà Tứ trên lưng lừa, gương mặt toát lên một vẻ bí mật khó mà lý giải ấy như đang chiếu rọi vào con người vốn sống một cách hời hợt của bà Cửu khiến bà như muốn hôn mê.



Trong lúc con lừa tưng vó chạy, hai chiếc giày to tướng liên tục đập vào đôi bầu vú của bà Tứ, chiếc xương sống nhô cao của con lừa chọi thẳng vào mông bà và những chiếc xương sườn va vào chân. Trong mấy mươi năm, những người đàn bà - trong đó có cả mẹ tôi - vẫn thường bí mật thì thầm với nhau một cách bí mật về cách lý giải những sắc thái thần bí trên gương mặt bà Tứ lúc ấy, tôi luôn luôn tỏ thái độ hoài nghi đối với vấn đề này. Những người đàn bà cho rằng, đúng vào trong cái chớp mắt khi bà Tứ đưa tay lên vẫy chào từ biệt mọi người chính là bà đã nhập vào cõi tiên, cho nên ngồi trên lưng lừa lúc ấy không còn là bà Tứ nữa mà là một vị tiên cô. Đã là một tiên cô thì không hoàn toàn cần thiết phải lén lén lút lút đi trên bờ đê rậm rạp như một người đàn bà bị chồng đuổi về nhà bố mẹ đẻ mà cứ đường đường chính chính đi giữa nơi đông người, trên đường cái quan. Ai trông thấy được bà ấy là một hạnh phúc; ai không trông thấy là một điều đáng tiếc. Để chứng minh cho những phán đoán của mình, những người đàn bà - có cả mẹ tôi trong số đó - đưa ra một số chứng cứ: Thứ nhất, bà Tứ từ nhỏ không rời khỏi nhà cha mẹ, lớn lên lấy chồng không rời khỏi cổng nhà chồng, đây là lần đầu tiên bà được ngồi lên lưng lừa, nó lại phi như điên cuồng như thế mà bà vẫn ngồi ổn định như Thái Sơn trên lưng nó, rõ ràng đây không phải là việc mà người đàn bà có thể làm được. Thứ hai, đôi mắt của bà Tứ lúc ấy phát ra một thứ ánh sáng rất lạ lùng, còn sáng hơn cả ánh tia nắng mặt trời, chỉ thoạt nhìn vào đó mà bà Cửu đã muốn hôn mê. Loại ánh sáng này rõ ràng không bao giờ xuất hiện ở người phàm trần. Thứ ba, căn cứ vào hồi ức của những người có mặt hôm ấy, khi con lừa chở bà Tứ trên lưng phóng qua trước mắt mọi người, ai ai cũng ngửi thấy một mùi hương. Mẹ tôi thì bảo đấy là mùi thơm của hoa lan, bà Cửu thì cãi: không phải mùi hoa lan, đó là mùi hoa quế, bà Ngũ thì do dự nói đó chẳng qua là mùi son phấn. Còn thím Thập Tứ thì bảo đó là mùi hoa nhài... Mỗi người ngửi thấy một mùi riêng. Chỉ có một thứ mùi phát ra từ thân thể bà Tứ nhưng trong cảm thụ của từng người lại rất khác nhau, chứng minh rằng đó không phải là mùi vị của chốn nhân gian. Chứng cứ thứ tư không mấy thuyết phục bởi nó liên quan đến âm nhạc và chỉ có mỗi một mình bà Cửu khẳng định là đã nghe một điệu nhạc du dương phát ra khi bà Tứ đi ngang qua người bà. Mẹ tôi và những người đàn bà khác nghi ngờ là lúc ấy bà Cửu nghe được tiếng nhạc tế từ miếu Ba Lạp vẳng tới, bởi khi bà Tứ cưỡi lừa bay trên đường cũng chính là nghi thức tế lễ ở miếu Ba Lạp bắt đầu lúc này ba nhạc công được ông Tứ thuê đến đã hòa tấu một khúc nhạc dân gian truyền thống. Mà ngày ấy cũng chính là lúc gió đông đang thổi.



Nói tóm lại, bà Tứ là một hình tượng được khoác cho bộ áo vô cùng thần bí trong gia tộc của chúng tôi, riêng tôi thì vẫn cứ hoài nghi tính chân thực của những câu chuyện kể này nhưng lại hy vọng vào tinh thần thực sự cầu thị của mẹ cũng như những người đàn bà khác. Cả một thế hệ phụ nữ tiền bối đức cao vọng trọng trong gia tộc lại cùng nhau sáng tác một câu chuyện thần thoại tập thể hay sao? Huống hồ thần thoại lại không phải là cây không có gốc nước không có nguồn, nhất định nó phải có một căn cứ thực tế nào đó. Vả lại chuyện bà Tứ cưỡi lừa bay trên đường chỉ mới diễn ra có năm mươi năm, mẹ tôi và nhiều người đàn bà khác được chứng kiến tận mắt, mỗi khi nhắc đến chuyện này thì mặt ai cũng đều thể hiện một sự nghiêm túc chân thành, những lời kể của họ đã đạt đến trình độ nghiêm túc tuyệt đối, thống nhất tuyệt đối; nói cách khác là một quá trình lưu truyền nghiêm túc, tôi không đủ lý do để phủ định tính chân thực của câu chuyện này.



Đương nhiên, xuất phát từ lòng tôn kính với người đã khuất xuất phát từ sự đồng cảm với số phận thê thảm của bà Tứ, xuất phát từ trạng thái tình cảm "thỏ chết chồn thương" mẹ tôi và những người đàn bà khác cũng có thể đã gia công điểm xuyết nghệ thuật thêm cho câu chuyện. Nhiệm vụ trước mắt tôi là phải loại trừ những hoàn tiết bên ngoài sự thật của câu chuyện, nắm chắc bản chất của vấn đề. Thứ nhất, con lừa giật khỏi dây cương chạy xuống khỏi bờ đê là chuyện không còn phải bàn cãi gì nữa; thứ hai, bà Tứ ngồi rất ổn định trên lưng lừa và gương mặt biểu thị một sắc thái vô cùng thần bí cũng là một chuyện không cần phải nói gì thêm.



Con lừa được dắt lên mặt đê nhưng lại chạy như bay trở lại là vì mặt đê quá hẹp, nước sông lại quá trong khiến đầu óc nó trở nên hoảng loạn; còn bà Tứ sở dĩ ngồi một cách ổn định trên lưng lừa mà không rơi xuống là do những cơ năng trong tiểu não bà khá kiện toàn, có năng lực giữ vững thăng bằng hơn so với người bình thường. Chỉ có điều duy nhất cần phải tốn công lý giải là: Vì sao trên mặt bà Tứ lúc ấy lại có thể biểu hiện được sắc thái của một thiên thần? Chỉ cần nhắm mắt lại là tôi đã hình dung ra gương mặt bà Tứ lúc ấy: phóng túng, lãng đãng, mê mê, tỉnh tỉnh, tràn trề hạnh phúc. Tôi không thể không thừa nhận, những biểu hiện trên gương mặt bà lúc ấy có quan hệ mật thiết với giới tính. Kiểu lý giải này tôi không hề nói với mẹ cũng như bất kỳ một ai, nhưng rõ ràng là nó đã định hình trong tôi. Căn cứ vào những tài liệu có liên quan, tôi biết người đàn bà trong lúc thống khổ đến cực độ thì vô cùng mẫn cảm đối với chuyện kích thích tính dục và những phản ứng của nó biểu hiện rất rõ ràng. Con lừa đang chạy như bay, chiếc xương sống gầy gò nhô cao của nó không ngừng cọ xát và va đập với đùi và mông bà Tứ, hai chiếc giày lại không ngừng mân mê đôi vú vổng lên rất cao của bà. Lưng lừa thì cọ xát và va đập, đôi giày thì mân mê... Đây là những chỗ vô cùng mẫn cảm về mặt tình dục trên cơ thể người đàn bà. Bà Tứ đang đau khổ cùng cực vì bị chồng bỏ đột nhiên nhận được những kích thích rất mạnh trên toàn thân, những ức chế về tình dục, những nỗi đau đớn dằn vặt phức tạp trong lòng bà trong một thời gian ngắn đã được bù đắp được giải tỏa, do vậy mà nói gương mặt bà lúc ấy như phiêu diêu thoát tục như thể lên tiên cũng chẳng có gì là khoa trương phóng đại cho lắm.



Khi con lừa chạy ra đến đường cái lớn thì bắt đầu đi chậm lại và nó cũng quay về với cái bộ dạng cúi đầu ủ rũ cố hữu mấy mươi năm giống như một ngày của nó, dây thừng treo lủng lẳng trên cổ giống như một con rắn. Ông Cửu thở hồng hộc nhào đến, khom người chụp lấy chiếc dây thừng rồi vung quyền lên, nhằm ngay vào ức con vật đấm liền mấy cái. Con lửa chẳng có một phản ứng gì.



Ông Cửu lôi mạnh dây thừng muốn con lừa quay đầu lại để đi về phía bờ đê, men theo con đường nhỏ um tùm những cây hòe trên mặt đê lặng lẽ rời khỏi làng. Suy nghĩ này chứng minh ông Cửu cũng vẫn có lương tâm, là sự quan tâm đến danh dự của bà Tứ, nhưng ý tốt của ông ta không được đền đáp tương xứng. Khi ông đang dùng toàn lực để kéo con lừa điên điên khùng khùng và ngu ngốc ấy thì bà Tứ đã động đậy chân phải và bàn chân có mang chiếc giày thêu hoa đã vung mạnh lên, một cú đá như trời giáng bay thẳng vào mặt ông Cửu. Ông Cửu thấy đom đóm bay chấp chới trước mặt, trong tai như có tiếng trống đánh ầm ầm, thân thể lảođảo suýt chút nữa thì ngã nhào. May mà ông Cửu không thể nhìn thấy sắc mặt của chính mình lúc này. Nếu ông Cửu sớm ngẩng đầu lên để nhìn bà Tứ trước khi nhận lãnh cú đá như trời giáng: Bà ngồi trên lưng lừa mà như Phật Bà Quan âm ngồi trên tòa sen, thái độ ung dung trang trọng cùng với một mùi hương thanh khiết tỏa ra nực mũi; thì có đánh chết ông cũng không tin là bà Tứ thực tế đã đá một cú thật mạnh trúng vào giữa mặt ông. Sau khi cơn choáng váng đi qua, ông ngước mắt lên nhìn thì thấy bà Tứ khép hờ đôi mắt, gương mặt biểu hiện một cách mệt mỏi những trạng thái tinh thần phức tạp hỉ nộ ái ố, cũng chẳng hề hé miệng nói lấy một tiếng. Ông Cửu cho rằng, cú đá ấy là do trời giáng vào ông, do vậy mà con lừa cũng đã trở thành một linh vật có khả năng đối thoại với thần ma. Đã như thế thì ông Cửu không dám làm trái ý nó nữa, lo sợ lẫn tôn kính, ông cẩn thận cầm chiếc dây thừng nối từ cái đầu đầy trí tuệ một cách thần bí của nó và bước theo, lưng ông cong xuống, phía dưới vết thương do ông Tứ cắn hình bầu đục nằm ngay giữa trán vẫn đang rỉ máu lại thêm một vết bầm tím ngay giữa chỗ giao nhau của đôi lông mày do gót giày bằng gỗ của bà Tứ để lại, ông Cửu xiêu xiêu vẹo vẹo đi về hướng đông...