Chuyện Tình Như Huyền Thoại
Chương 6 :
Ngày đăng: 12:06 19/04/20
Paula O�Neill đứng nơi cửa sổ phòng ngủ trong căn hộ ở đại lộ Thứ Năm, nhìn ra quang cảnh công viên Trung tâm. Ngoài trời nắng nóng, nhưng không ẩm ướt, ánh sáng nhấp nháy tươi vui. Cây cối trong công viên xanh tươi vươn cao trên bầu trời trong sáng, và phía bên kia công viên, thành phố Manhattan vươn lên trên nền chân trời trong thật huy hoàng lộng lẫy. Ánh sáng mặt trời phản chiếu từ hàng ngàn cánh cửa sổ, khiến cho những tòa nhà chọc trời lung linh trong bầu không khí trong vắt, sáng sủa.
Bà nghĩ trên thế giới không có thành phố nào như thế này. Bà thích thành phố New York ngay từ khi còn bé, mới đến đây với bà ngoại. Bà Emma cũng bị thành phố lộng gió, sinh động, ồn ào này thu hút, thành phố mà bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra được hết. Bà Emma thường nói như thế với bà, và thường nói thêm rằng: "Ở đây bầu trời có giới hạn, Paula à. Cháu đừng quên như thế".
Quay người rời khỏi cửa sổ, Paula bước ra ngoài phòng ngủ, đi vào tiền sảnh để đến thư viện, đôi giày cao gót gõ lóc cóc trên nền nhà lát đá cẩm thạch màu đen trắng. Phòng thư viện là nơi bà thích nhất trong số các phòng ở trong căn hộ này. Theo bà Emma, đây cũng là nơi ông ngoại bà thích nhất. Bà Emma có lần nói rằng ông ngoại bà thích ván ốp tường màu đen ở đây, thích những cuốn sách bìa bọc da màu đỏ, thích đồ xưa từ thời George mà bà đã lựa chọn, thích hơi ấm tỏa ra từ vải gấm màu hồng sẫm làm màn che cửa sổ và dùng bọc ghế nệm dài. Bà ngoại đã nói:
- Ông ấy thường nói phòng này trông có vẻ giản dị, không cồng kềnh, nặng nề. Nhưng ông cũng thích cách trang hoàng của bà tại các ngôi nhà khác của chúng ta.
Ông Paul McGill đã mua căn hộ ở đại lộ Thứ Năm này cho Emma và ông ở trong thập niên 1930. Đây là căn hộ hai tầng rộng rãi được nhà kiến trúc sư nổi tiếng Rosairio Candela vẽ kiểu vào năm 1931. Ssau khi Paul chết yểu vào năm 1939, Emma có ý định bán ngôi nhà, nhưng sau đó không bán. Khi ấy chiến tranh bắt đầu bùng nổ, bà quá bận công việc với cửa hàng Blitz ở London, nên không quan tâm đến ngôi nhà ở Manhattan. Có lần Emma nói với Paula:
- Bà mừng vì đã không bán ngôi nhà. Nhờ có ngôi nhà này mà mỗi lần đến Hoa Kỳ, chúng ta được sống ở đấy thoải mái, tự do, khỏi phải đi ở khách sạn.
Khi bà Emma mất, Paula và em trai bà là Philip được cùng thừa hưởng ngôi nhà, nhưng mọi người trong gia đình đều sử dụng ngôi nhà mỗi khi họ đến Mỹ, nhất là các anh chị họ Emily và Winston Harte, và em gái của Emily là bà Amanda Linde, họ đến đây luôn. Mọi người đều thích ngôi nhà, rất tự hào về vẻ đẹp kỳ lạ của nó. Ngôi nhà sang trọng, ấm cúng mà không khoa trương, nó mang dấu ấn của bà Emma Harte về mọi mặt, và đã phản ảnh rõ ràng khiếu thẩm mỹ của bà về màu sắc, về sự tinh tế trong cách chơi đồ cổ và thưởng thức hội họa.
Paula ngồi vào bàn làm việc, lòng cảm thấy quá cảm phục bà ngoại, quá khiếp sợ trước những thành quả của bà. Paula không thể tưởng tượng nỗi khi nhìn những công việc mà ngoại đã làm trong đời bà: cô gái nghèo xuất thân ở Fairley, một ngôi làng xơ xác trên những cánh đồng hoang ở Yorkshire, bắt đầu đi làm gia nhân lúc mới mười hai tuổi cho gia đình Fairley ở Fairley Hall. Thế nhưng, có phải bà đã tạo nên thành quả này không? Paula tự hỏi. Thành quả này từ đâu đến, tài năng này, khiếu thưởng thức nghệ thuật, sực hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật này? Và chí khí, nghị lực, sức mạnh, quyết tâm của bà từ đâu mà ra? Làm sao bà thu thập được ý chí bất khuất ấy để leo lên đỉnh vinh quang? Làm sao cô gái giúp việc nhỏ bé ấy trở thành mệnh phụ phu nhân, thành nhà đại tư bản thành đạt độc nhất vô nhị được? Bà Emma Harte hầu như một mình đã tạo nên một đế quốc tư sản mại bản tầm cỡ quốc tế có giá trị hàng tỷ bảng Anh và đã để lại cho con cháu một di sản kỳ diệu về uy quyền, giàu có và uy tín.
Thật không có ai giống như bà, Paula nghĩ, mắt vẫn nhìn vào khoảng không trước mặt. Emma là người độc nhất vô nhị, nhiều người đã làm theo khuôn mẫu của bà nhưng đều thất bại.
Chuông điện thoại reo, Paula đưa tay nhấc máy.
- Alô?
- Chào mẹ, con Linnet đây.
- Chào cưng, tuyệt quá! Mọi người khỏe không? Công việc tân trang các cửa hàng tiến hành ra sao rồi? - Paula hỏi, bà thấy vui vô cùng khi nghe giọng con gái.
- Ồ rất tốt, con sung sướng... - Linnet dừng lại, hít vào một hơi dài rồi nói nhanh, - mẹ à, để con nói chuyện xảy ra hôm nay cho mẹ nghe. Bây giờ thì yên ổn cả rồi, mọi sự đều tốt đẹp. Thật đấy, nhưng con nghĩ tốt hơn là con phải nói hết cho mẹ biết. Và...
- Chuyện gì thế, Linnet? - Paula vội vàng cắt ngang lời cô. - Mẹ hy vọng, mọi người đều bình an vô sự chứ? - Bà bỗng nhớ lại cái ngày ông anh họ Winston Harte đã gọi Shane ở Conneticut để báo tin bố và chồng bà chết trong trận tuyết lở tại Chamonix. Hai cánh tay bà nổi da gà và bà căng thẳng, tự hỏi không biết có tin gì xấu sắp đến hay không.
- Phải, phải, mọi người đều bình an, - Linnet đáp rồi kể cho bà nghe những chuyện đã xảy ra.
- Ôi lạy Chúa, không ai bị gì! Adele không sao! Nhưng nó đã được tìm ra rồi phải không? Con nói mọi người đều bình an vô sự cả phải không?
- Dạ phải, nó đã về lại Pennistone Royal với Tessa, bình an vô sự rồi. - Linnet im lặng một lát rồi nói thêm. - Con đã mời Jack đến, ổng hiện đang ở đây, mẹ à. Mẹ nói chuyện với ổng, lát nữa con sẽ nói chuyện lại với mẹ.
- Xin chào Paula, - Jack nói.
Họ khám phá ra điều này trong nhà kho cũ kỳ diệu của Shane ở Milford, một ốc đảo thanh bình ở vùng quê của bang Connecticut. Và họ thề nguyền sẽ sống với nhau đến đầu bạc răng long. Dù sao cũng phải thế. Vì họ đã có ý định như thế từ lâu.
Trò đời kể cũng thật trớ trêu, bà lẩm bẩm một mình. Jim Fairley và bố bà - ông David Amory, đi nghỉ trượt băng ở Chamonix, đều bị chết trong một trận lở tuyết. Winston và Emily ngày hôm ấy không đi trược băng nên đã thoát chết. "Số họ chưa chết", - Paula thì thào nói. Chính Emma cũng thường nói như thế. "Khi chưa đến số chết thì người ta cứ sống".
Bà đau buồn cho Jim và bố bà một thời gian dài, bà khổ sở vì bà mang mặc cảm tội lỗi tày trời. Bà có tội vì đã xua đuổi Shane đi. Nhưng cuối cùng bà nhận ra bà yêu ông biết bao, và cần ông, bà nghĩ rằng ông là cả cuộc đời bà. Ông vẫn còn đấy.
° ° °
Mẹ của Evan, bà Marietta Hughes rất tức giận. Lại một lần nữa, ông Owen xử sự với thái độ cậy quyền, và bà cảm thấy muốn bóp cổ ông. Nhưng vì mẹ bà thường nói, không có người đàn ông nào đáng phải bị giết về tội xấu xa của họ hết, cho nên bà đành không dùng đến biện pháp gây chết chóc này.
Biện pháp bà phải dùng đến lúc này là cao chạy xa bay vài giờ cho hạ hỏa để bình tĩnh trở lại. Cho nên bà chụp cái xắc tay, lấy cái bao mua hàng giấu trong đống áo quần của bà ở trong tủ đã mấy ngày, rồi ra khỏi căn hộ. Thậm chí bà không vào trong phòng ngủ để chào ông mà đi. Chắc khi ông biết bà đi rồi, thế nào ông cũng lo.
Khi bà đi thang máy xuống tiền sảnh khách sạn, bà mong sao đừng gặp những người chủ của khác sạn, George và Arlette Thomas, nhất là Arlette, người bạn luôn muốn mời bà tách trà hay ly cà phê để nói chuyện phiếm về Evan. Bà nghĩ cái bà người Pháp này thương mến Evan và không có ý đồ gì có hại hết. Nhưng Marietta thường cảm thất thật khó chịu nếu bị buộc phải nói đến những người trong gia đình bà, nhất là Evan, người rất đặc biệt đối với bà.
May thay bà không bị ai gặp. Trời hôm ấy thật đẹp, chỉ hơi ẩm ướt thôi, nhưng bà mừng vì trời không mưa. Hôm qua trời mưa như trút. Bà ghét mưa. Owen cho rằng vì bà ở California đến, nhưng đấy không phải là lý do.
Ông không biết lý do bà ghét mưa. Vì cái ngày bất hạnh nhất của đời bà đã xảy ra trong mưa ở London... vào cái hôm khủng khiếp khiến cho đời bà như tan nát thành tro bụi, và bà cảm thấy như thể toàn thân bị nước mưa cuốn trôi. Phải, cuộc đời bà chấm dứt trong mưa vào ngày hôm ấy. Chỉ có sự hiện hữu mà thôi. Và từ khi ấy bà chỉ còn hiện hữu.
Chiếc taxi dừng lại trước mắt bà, bà bước vào, đưa cho tài xế địa chỉ ngân hàng của bà, rồi ngồi dựa người ra ghế. Bà sung sướng vì đã ra khỏi khách sạn mà không bị George hay Arlette chặn lại để nói chuyện, và bà mừng nhất là cái bao mua hàng giấu trong tủ quần áo được bà mang đi mà không ai trông thấy.
Marietta để cái xắc tay bên cạnh ở trên xe, nhưng cái bao mua hàng thì để trên lòng bà. Bà làm như thể đồ trong bao là chất nổ, nên phải cẩn thận. Bà không biết đồ trong bao có giúp gì bà không, nhưng bà biết rất rõ giá trị của nó.
Bỗng bà nghĩ rằng việc bà mở chương mục ở ngân hàng Barclays là khôn ngoan. Tiền bạc bà gởi không bao nhiêu, nhưng người trong ngân hàng này biết bà, và việc thuê thùng ký gởi an toàn không gặp khó khăn gì. Bà sẽ yên tâm khi gói hàng đã được gởi an toàn ở ngân hàng. Rồi bà sẽ đi đến cửa hàng Fortnum & Mason, uống cà phê ở nhà hàng ăn uống, có lẽ đi xem lướt qua cửa hàng một vòng. Có thể bà sẽ mua cái mũ, mặc dù bà biết bà không đi đâu đặc biệt để đội mũ. Nhưng bà thường thích mũ.
Thường thường bà sẽ đến cửa hàng Harte ở khu Thương xá Knightbridge để uống cà phê, nhưng bà sợ gặp Evan ở đấy. Họ làm như thể họ còn ở tại Conneticut và đến tuần sau mới đến London. Owen đã quyết định đến sớm hơn dự kiến. Ông nói: "Đến sớm để chúng ta có thì giờ quen múi giờ ở đấy". - Nhưng bà nghĩ ông làm thế là có ý đồ. Ông muốn đến sớm hơn dự kiến là để làm cho Evan ngạc nhiên.
Marietta không thích như thế, nhưng bà giữ im lặng. Đã từ lâu bà không muốn tranh cãi với Owen. Hầu như lúc nào bà cũng giữ ý kiến riêng của mình; tuy nhiên, việc này không ngăn cấm được bà thực hiện kế hoạch riêng của bà và khi mà thái độ của ông có liên quan đến con gái của họ.
Owen luôn luôn tin ông có quyền với Evan. Chắc có lẽ ông xử sự như thể ông có quyền với Evan. Khi cô còn nhỏ, ông đã chiếm lấy con gái của họ, ông đẩy "bà" ra ngoài. Bà mất Evan vì ông chiếm hữ cô bé, mà có lẽ còn vì lỗi lầm của bà nữa. Bà nắm chặt cái bao mua hàng, mấy khớp tay trắng bệch khi bà nghĩ đến quá khứ. Thỉnh thoảng người ta làm cái gì đấy, chỉ là một việc nhỏ thôi, nhưng có thể thu được nhiều kết quả lâu dài.
Chiếc taxi dừng lại, bà bước nhanh xuống xe, trả tiền cho tài xế, rồi đi vào ngân hàng. Công việc rất dễ dàng... Chỉ trong mấy phút là bà đã để cái vậy quý giá vào ngăn gởi đồ an toàn và cất chìa khóa vào ví xách. Bây giờ sẽ không có gì nguy hiểm nữa, cái gói sẽ không bị mất hay bị trộm.
Chỉ sau đó một lát, khi bà ngồi uống cà phê trong nhà hàng Fortnum, bà lại nảy ra một ý nghĩ thật khủng khiếp. Nếu bà bệnh mà chết thì sao, hay là bị tai nạn, hay trở thành người mất trí thì sao? Cái gói trong ngăn ký gởi an toàn sẽ như thế nào? Chỉ có mình bà biết cái gói ấy mà thôi. Bà phải nói cho người nào biết mới được. Nhưng biết người nào đáng tin?
Marietta nhếch mép mỉm cười châm biếm, không có ai để cho bà tin cậy là vì bà không có ai quen đáng cho bà tin tưởng. Phải nhờ luật sư, bà nghĩ mình cần luật sư để làm di chúc. Phải, mình phải làm như thế. Bà có vài thứ giá trị muốn để lại. Cũng như cái gói trong ngăn ký gởi an toàn, sẽ để cho con gái Evan của bà. Người mà bà thương yêu nhất trên cõi đời này.