Đại Đường Song Long Truyện

Chương 10 : Phấn đấu quên mình

Ngày đăng: 13:12 19/04/20


Ngày hôm sau, trời còn chưa sáng hai gã đã xách hành lý lên đường.



Chính quyết định đột biến này đã thay đổi cuộc đời hai gã, cũng thay đổi cả vận mệnh của thiên hạ và võ lâm.



Đích đến là Lạc Dương, vùng đất phía Đông của Đại Tùy.



Ngày ấy Tống Lỗ từng nói sau khi đến Tứ Xuyên làm công chuyện, y sẽ đến Lạc Dương thử vận may tìm Hòa Thị Bích trong truyền thuyết, bởi đây không phải là chuyện dăm bữa nửa tháng có thể làm xong, nên mặc dù đã cách nửa năm, nhưng hai gã vẫn muốn thử đến Lạc Dương một chuyến, xem xem có thể gặp được Tống Lỗ không.



Càng đến gần Trường Giang, hai gã càng cảm nhận được sự áp bức của chiến loạn tới gần kề, trên đường bất thời đều gặp phải người đang chạy loạn, khi được hỏi đến thì chẳng ai biết mình đang chạy trốn người nào nữa, ngay cả Tùy Quân hay Nghĩa quân cũng không phân biệt được.



Ngày hôm đó, hai gã đến một huyện thành nhỏ, tìm khách điếm trọ qua đêm. Nửa đêm, đột nhiên nghe thấy tiếng rầm rập trên phố, quang cảnh hỗn loạn phi thường.



Hai gã biết có chuyện chẳng lành, vội thu xếp hành lý, chạy ngay xuống lầu, kéo áo một trong những khách trọ đang định bỏ chạy lại hỏi thăm.



Người kia nói:



- Đỗ Phục Uy đã đại phá quân Tùy ở Đông Lăng, tiến chiếm Lịch Dương, thật không ngờ quân mã của y lại đến nhanh như vậy!



Nói đoạn lại hoảng hốt bỏ đi.



Hai gã cũng không ngờ Lịch Dương lại thất thủ nhanh đến vậy, làm hỏng cả kế hoạch đến Lịch Dương ngồi thuyền lên Bắc của chúng. Ra đến ngoài phố, chỉ thấy người xe tranh đường, giẫm đạp lên nhau mà trốn chạy xuống hướng Nam, dọc đường tiếng trẻ kêu góc gọi mẹ vang động cả trời xanh. Hai gã tuy đảm lượng hơn trời, nhưng dù sao cũng vẫn chỉ hai hai đứa trẻ to đầu, nhất thời bị không khí thê lương, thảm đạm cực độ đó làm cho cảm nhiễm, lòng dạ rối như tơ vò, vội vội vàng vàng đi theo dòng người rời khỏi huyện thành.



Trên đường vứt đầy những thứ người dân chạy loạn bỏ lại, gia cụ, y phục, mũ mão, giầy dép, có thể thấy tình hình hỗn loạn thế nào.



Hai gã cố sống cố chết nắm chặt tay đối phương, sợ bị dòng người xô đẩy làm lạc mất nhau.



Ra đến thành ngoại, thấy khắp nơi đều là người dân chạy nạn đang cầm đèn cầm đuốc dáo dác bỏ chạy, thật không ngờ một huyện thành nhỏ bé, ngày thường trên phố vắng teo, vậy mà lại có nhiều người đến vậy.



Khấu Trọng kéo tay Từ Tử Lăng thay đổi phương hướng, rẽ theo đường nhánh rời khỏi đoàn người, trầm giọng nói:



- Chúng ta vẫn phải lên phía Bắc, cùng lắm thì không đến Lịch Dương nữa.



Từ Tử Lăng gật đầu nói:



- Như thế được lắm, chúng ta chỉ cần cẩn thận một chút là được.



Hai gã thương thảo một hồi, sau liền quay ngược trở lại, tiếp tục ngược lên mạn Bắc.



Từ sau khi rời khỏi Thúy Sơn, đây là lần đầu tiên hai gã đi đường trong đêm, bất ngờ lại phát hiện ra mặc dù chỉ có chút ánh sáng mờ nhạt của mấy vì sao, nhưng hai gã vẫn nhìn đường sáng rõ như ban ngày.



Đi được khoảng hơn một canh giờ, chợt thấy phía trước lửa bốc ngụt trời, cùng với đó là tiếng hò hét vang dội, hai gã sợ đến hồn bay phách lạc, vội vội vàng vàng chuyển hướng bỏ chạy, chính vì vậy, mà cả hai đã mất hết cả cảm giác về phương hướng.



Đến sáng ngày hôm sau, hai gã đến được một thôn làng nhỏ, đang định tìm người hỏi đường thì bất chợt có tiếng vó ngựa rầm rập vang lên, một đội nhân mã lao từ trên triền núi xuống như gió. Hai gã cả kinh, vội vàng nấp vào một bụi cỏ gần đó.



Đội nhân mã này ước chừng hơn sáu chục người, chỉ cần nhìn võ phục hỗn loạn trên mình chúng cũng biết đây là nhân mã của nghĩa quân, trên tay kẻ nào cũng buộc một dải khăn xanh. Toán quân xông thẳng vào thôn làng, phóng tiễn hạ sát mấy con chó đang lao ra cản chân ngựa, tiếp đó xông vào từng nhà một lục soát, dồn hết hơn trăm nam nữ lão ấu trong làng ra ngoài, nhất thời gà bay chó chạy, tiếng kêu than khóc lóc vang trời, khiến hai gã cảm thấy vô cùng bất nhẫn.



Nếu như hai gã có võ công cái thế, lúc này đã xông ra chủ trì chính nghĩa rồi.



Nhưng hai gã cũng biết được một điều, dù là võ nghệ cái thế như Sở Bá



Vương Hạng Vũ thì cũng cần phải có đủ thứ điều kiện khác nữa, bằng không thì cũng đâu có kết cục phải tự vẫn bên dòng Ô Giang như vậy.



Ở trong cái thời đại loạn lạc này, lực lượng của một người nhỏ đến mức căn bản không đáng nhắc đến.



Quân khăn xanh bắt nam nữ trong thôn xếp thành hai hàng riêng biệt, sau đó triển khai vòng vây, đề phòng có ai trốn thoát.



Hai gã giờ mới hiểu tại sao khi nghe tin nghĩa quân sắp tới, cả huyện thành lại bỏ chạy sạch sẽ như vậy.



Đáng thương cho đám người ở thôn làng này tin tức không linh, quân binh vào tận trong thôn rồi mà vẫn chưa biết là chuyện gì xảy ra.



Hai gã nào đã từng thấy qua cảnh tượng như thế này, nhìn thấy đám nghĩa binh, tay cầm đao cầm kiếm, kẻ nào cũng là hạng hung đồ giết người không nháy mắt, nên chẳng dám thở mạnh lấy một hơi. Đặc biệt bọn gã chỉ cách tên nghĩa binh gần nhất có hơn mười bước, quả thật là nguy hiểm vô cùng.



Một tên trong bọn xem ra có vẻ là thủ lĩnh của đám nghĩa quân này dẫn theo bốn gã tùy tùng, thúc ngựa đi chầm chậm xung quanh, chọn ra những thanh niên trai tráng đẩy ra một bên, một tên khác lấy dây thừng ra trói họ lại thành một sâu, thái độ ngang ngược vô đạo phi thường. Người nào dám phản kháng, roi ngựa lập tức quất xuống như điên cuồng, đánh cho thừa sống thiếu chết.



Hai gã nhìn cảnh tượng này mà xanh mặt tím mày, nhưng chỉ có thể nén phẫn hận lại trong lòng mà không dám nói ra.



Những người phụ nữ thấy nhi tử, trượng phu của mình bị bắt đi làm phu dịch, gào khóc thảm thương, nỗi thống hận thấu tận trời xanh.



Nhưng đám người được gọi là nghĩa quân này kẻ nào kẻ nấy đều hung hãn tàn ác, tuyệt chẳng có chút lòng trắc ẩn.



Tên thủ lĩnh đám quân binh sau khi chọn xong nam đinh, đi dạo một vòng xung quanh đám phụ nữ hài nhi, đột nhiên dừng ngựa lại, chỉ roi vào một nữ nhân quát:



- Ngươi ra đây!



Đám thôn dân lập tức làm loạn lên, nhưng nhanh chóng đã bị lũ "nghĩa quân" quát dẹp, đương nhiên cũng không tránh khỏi mấy người bị đánh đến trọng thương, bán sống bán chết.



Hai gã Khấu, Từ nhìn mà ***g ngực như muốn nổ tung, nhưng hai gã cũng biết, dù mình có ưỡn ngực xông ra cũng chẳng được tác dụng gì, ngược lại chỉ chuốc họa vào thân mà thôi. Đến giờ cả hai thấy cái cách nghĩ dựa vào nghĩa quân, gia nhập nghĩa quân của mình trước đây sao mà ngu muội, sao mà ngây thơ đến thế.



Thôn nữ kia bị kéo ra ngoài, quả nhiên là một tiểu mỹ nhân, thân hình đầy đặn, khuôn mặt thanh tú chẳng trách đã làm cho tên đầu lĩnh kia phải động tâm.



Tên đầu lĩnh cười lên một tràng dâm dật, chợt một gã thanh niên nghĩa binh lạnh lùng lên tiếng:



- Kỳ lão đại, Đỗ Tổng quản không phải đã có lệnh là không được gian dâm phụ nữ hay sao? Bây giờ Kỳ lão đại ngươi dừng ngựa trước vực thẳm có lẽ vẫn còn kịp đấy!



Người này mặt đầy chính khí, lại dám dĩ hạ phạm thượng, Khấu Trọng với Từ Tử Lăng không ngờ trong đám nghĩa quân ô hợp lại có nhân vật thế này, trong lòng cũng thầm khâm phục.



Kỳ lão đại "hừ" lạnh nói:
- Vũ Văn Hóa Cập đã giết mẹ chúng tôi, vì vậy chúng tôi muốn tìm hắn báo cừu.



Lý Tịnh nghĩ tới khúc chiết bên trong, còn tưởng Vũ Văn Hóa Cập đã thật sự hại chết mẹ hai gã, cũng giống như rất nhiều người khác đã bị Dương Quảng hại cho gia phá nhân vong vậy, về sau nghe Từ Tử Lăng giải thích rõ ràng, mới biết được tình hình bên trong. Y liền nghiêm mặt nói:



- Hai vị huynh đệ hiển nhiên là mới nhập giang hồ, còn chưa thông hiểu nhân tình thế thái. Hành tẩu giang hồ cần biết một câu này: "gặp người chỉ nói ba phần thật", rất nhiều kẻ bề ngoài thì đáng tin cậy, nhưng nói không chừng, vào một tình thế nào đó, kẻ ấy sẽ trở thành địch nhân đáng sợ nhất của ta. Vì vậy mỗi câu nói của chúng ta trước đó, đều có thể trở thành yếu điểm để địch nhân khai thác.



Lý Tịnh vui vẻ nói:



- Những người khiến Lý mỗ vừa gặp đã thấy hợp ý như hai vị tiểu huynh đệ đây thật ít lại càng ít, còn vừa gặp đã thấy hết hy vọng lại nhiều không kể xiết.



Trên thế gian này có rất nhiều chuyện xem như tuyệt đối không có khả năng, đều do những người có chí khí một tay làm nên, kẻ bố y cũng có thể được phong hầu bái tướng, thậm chí đăng lên bảo tọa cửu ngũ chí tôn, người nghèo rớt mùng tơi cũng có thể trở thành phú gia địch quốc, những chuyện này sớm đã có tiền lệ, vì vậy hai người phải luôn luôn nỗ lực vươn lên.



Khấu Trọng và Từ Tử Lăng nghe mà hai mắt sáng rực lên.



Được nói chuyện với Lý Tịnh, thật chẳng khác gì đang trong màn đêm tối tăm mà gặp được ánh đèn, khiến hai gã nhìn thấy được hi vọng và mục tiêu, làm phấn chấn lại chí khí đã bị đả kích nặng nề bởi cái chết bi thảm của Phó Quân Sước.



Lý Tịnh tiếp tục nói:



- Ngoài Trác Nhượng, Lý Mật, hiện giờ có thanh thế lớn nhất là Vương Bạc, Đậu Kiến Đức và Đỗ Phục Uy, ba thế lực này xem ra... là có tiền đồ nhất.



Khấu Trọng thấy một nhân vật kiến đa thức quảng, tài giỏi hơn người như Lý



Tịnh mà cũng sử dụng câu nói này của gã, trong lòng đắc ý vô song, nói:



- Đỗ Phục Uy thì huynh đã nói qua rồi, còn hai thằng cha Vương Bạc và Đậu Kiến Đức thì có lợi hại không?



Tố Tố cười hì hì nói:



- Sao gọi người ta là thằng cha?



Lý Tịnh mỉm cười nói:



- Khấu tiểu huynh đệ vẫn còn trẻ con mà! Vương Bạc là đệ nhất cao thủ



Trường Bạch Phái, được xưng tụng là "Tiên Vương" trong võ lâm, y tự xưng là Tri Thế Lang, bài Vô Hướng Liêu Đông Lãng Tử Ca do y sáng tác đã đi sâu vào lòng người, nhờ vậy mà y nắm được lòng dân, được dân chúng vùng Sơn Đông rất ủng hộ, so với Đỗ Phục Uy thì mạnh hơn rất nhiều.



Lý Tịnh ngừng lại giây lát rồi nói tiếp:



- Nếu Trác Nhượng và Lý Mật trở mặt, vậy thì kẻ trở thành long đầu thay thế nhất định là Đậu Kiến Đức ở Thanh Hà chứ chẳng nghi, người này là Bá chủ hắc đạo vùng Hà Bắc, trước đây đã từng làm Lý trưởng, về sau do gia tộc thân hữu của y bị Dương Quảng giết sạch, nên mới phẫn hận mà gia nhập quân khởi nghĩa của Cao Sĩ Đạt. Sau khi Cao Sĩ Đạt tử chiến sa trường, quyền bính liền rơi vào tay y. Người này võ công đã tới mức xuất thần nhập hoá, thủ hạ tới hơn mười vạn, hùng cứ nơi Cảo Kê Bạc, thế lực xuyên suốt Hoàng Hà, tuyệt đối không thể xem nhẹ.



Khấu Trọng thở dài than:



- Nghe Lý đại ca một hồi còn hơn cả nghe trộm trong tiệm ăn con bà nó kia ba tháng, cái gì mà Dương Huyền Cảm, Tống Tử Hiền, Vương Tu Bạt, Ngụy Đao Nhi, Lý Tử Thông, Lư Minh Nguyệt, Lưu Vũ Châu chứ, tên thì nghe rõ là hay, khiến cho đầu đệ ong hết cả, thì ra lợi hại nhất lại là mấy người này.



Lý Tịnh lấy lương khô chia cho mọi người rồi nói:



- Chúng ta phải qua đêm ở đây rồi mới đi được, lúc ấy truy binh đã người mệt ngựa mỏi, cho dù chúng ta có gặp phải chúng cũng không có gì phải sợ.



Hai gã sớm đã kính Lý Tịnh như bậc thần minh, nghe y nói mà gật đầu lia lịa.



Tố Tố chợt hỏi:



- Lý đại ca rời khỏi Đỗ Phục Uy, sau này có dự liệu gì hay không?



Lý Tịnh không đáp mà hỏi ngược lại:



- Ba người định đi đâu?



Tố Tố cúi đầu đáp:



- Tôi muốn đến Vinh Dương tìm tiểu thư để xin tiểu thư nhắc nhở lão gia đềp hòng Lý Mật.



Khấu Trọng cũng đáp:



- Chúng tôi phải đến Lạc Dương tìm một vị bằng hữu.



Lý Tịnh gật đầu nói:



- Ta lại muốn đến Đại Đô xem khí số của người Tùy thế nào, dù sao cũng phải ngược lên mạn Bắc, để ta tiễn ba người một đoạn vậy! Dọc đường có thể tiện thể truyền cho hai vị tiểu huynh đệ một ít kỵ thuật, xạ tiễn và võ công căn bản.



Hai gã Khấu, Từ cả mừng thốt:



- Sư phụ!



Lý Tịnh vội nói:



- Ngàn vạn lần không được gọi ta là sư phụ, chúng ta chỉ dùng bối phận ngang hàng mà nói chuyện thôi, huống hồ mẹ hai người đã truyền cho hai người căn bản nội công vững chắc, có thể nói là cao thâm khó dò, thêm vào hai người có căn cốt tuyệt thế, con người lại linh hoạt cơ trí, tương lai nhất định sẽ trở thành cao thủ tuyệt đỉnh, xưng hùng vũ nội, hiện giờ hai người có thể chưa tin vào bàn thân mình, song sự thực trong tương lai sẽ chứng minh rằng ta tuyệt đối không sai.



Hai gã đưa mắt nhìn nhau, chưa biết nói gì thì Lý Tịnh đã dài người đứng dậy nói:



- Để ta dậy cho hai người kỵ mã trước, sau đó sẽ truyền đao pháp. Đao pháp của ta tính đi tính lại cũng chỉ có hơn mười thức, rất thích hợp để xung sát trong chốn thiên quân vạn mã, còn để tranh hùng trong giang hồ thì e rằng không đủ, nhưng khi xung phong trên chốn sa trường thì uy lực vô cùng, đặc biệt là khi đối phương nhân số đông hơn gấp bội. Còn tiễn thuật của Lý mỗ là ngộ được từ thuật xạ kỵ của người Hồ, về mặt này ta cũng có mấy phần tự tin.



Hai gã không ngờ gặp được kỳ ngộ như vậy, vội vàng quỳ xuống bái tạ.



Lý Tịnh cười lên ha hả, dẫn theo hai gã bước ra khỏi thạch động.