Đại Đường Song Long Truyện

Chương 209 : Doanh trung học pháp

Ngày đăng: 13:15 19/04/20


Dương Công Khanh trải tấm địa đồ lên bàn, chỉ thấy ở giữa là dòng Lạc Thuỷ, phía trên là Hoàng Hà chảy song song với Đông Đô được ký hiệu bằng một hình vuông đen, nằm ở phía Tây sông Lạc, tiến về phía Đông là Yển Sư, Lạc Khẩu, Hổ Lao và Huỳnh Dương, hai thành Hổ Lao và Huỳnh Dương được xây bên bờ Phiếm Thuỷ và Tố Thuỷ, là sông Hoàng Hà đã nối ba dòng Lạc Thuỷ, Phiếm Thuỷ và Tố Thuỷ lại với nhau.



Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Vương Huyền Nộ, Linh Lung Kiều đứng xung quanh châu đầu vào nghiên cứu. Thời gian khẩn bách, đại quân của Lý Mật bất cứ lúc nào cũng có thể áp sát đến nơi, vì vậy nên không ai dám lơ là chủ quan dù chỉ một phút.



Khấu Trọng chỉ tay vào một điểm đen nhỏ hơi lệch lên phía Bắc nằm giữa Đông Đô và Yển Sư rồi nói: “Quân của Lý Mật chính là tập trung ở chỗ này. Tên này đúng là lão yêu gian hoạt, bởi vì phát quân từ Kim Dung thành này, thì bất luận là tiến công Lạc Dương hay Yển Sư, lộ trình cũng không khác nhau là mấy, khiến cho người ta khó mà đoán biết được hắn sẽ tấn công nơi nào, hau là chia binh làm hai nữa”.



Vương Huyền Nộ nói: “Đây chính là nguyên nhân mà cha ta phải đặt trọng binh đóng ở Yển Sư, nếu Lý Mật dám đánh đến Đông Đô, chúng ta ở đây sẽ khiến hắn rơi vào cảnh lưỡng đầu thọ địch, cùng lúc lại uy hiếp đến cả Hổ Lao, Lạc Khẩu ở phía Đông nữa”.



Dương Công Khanh gật đầu nói: “Vì vậy nếu Yển Sư thất thủ, Đông Đô sẽ hoàn toàn mất đi cứ điểm quan trọng phía Đông, Lý Mật càng không cần lo lắng phòng bị phía sau và chuyện lương thảo tiếp viện nữa mà có thể phóng tay toàn lực công hạ Lạc Dương. Bởi thế mà việc giữ được Yển Sư hay không, thực có ý nghĩa vô cùng quan trọng với quân ta đó”.



Linh Lung Kiều nhắc lại suy đoán của Khấu Trọng: “Nếu hắn chia binh làm hai đường, rồi phối hợp với Độc Cô Phiệt làm nội ứng, lấy công Lạc Dương làm chủ, bao vây Yển Sư làm phó, vậy chúng ta phải ứng phó làm sao?”.



Dương Công Khanh quả quyết nói: “Nếu tin tức của Tuyên Vĩnh là không sai thì Lý Mật tuyệt đối không có năng lực phát động thế công quy mô lớn như vậy, thêm nữa, chỉ cần bọn Độc Cô Phiệt và Dương Động có thể giữ được Hoàng cung thêm hai ngày nữa đã là giỏ lắm rồi, nên dù chúng có muốn nội ứng ngoại hợp đi chăng nữa, cũng chỉ hữu tâm vô lực mà thôi. Huống hồ bọn chúng lại càng mong thượng thư đại nhân và Lý Mật lưỡng bại câu thương hơn ai hết, làm sao lại ngu xuẩn đến mức dẫn sói vào nhà như vậy chứ, thế nên chúng ta có thể hoàn toàn yên tâm về Đông Đô”.



Từ Tử Lăng chỉ vào một rặng núi dài gần trăm dặm phía Bắc Kim Dung thành hỏi: “Đây là núi gì?”.



Dương Công Khanh nói: “Đó là Mang Sơn, Lão Quân Quan của Khả phong yêu đạo chính là ở đỉnh Thuý Vân Phong trong dãy núi này”.



Khấu Trọng nói: “Lý mật đúng là gian giảo, Kim Dung thành dựa lưng vào Mang Sơn, vậy nên hắn không cần lo phòng thủ phía sau nữa. Còn nếu chúng ta tấn công thành, hắn lại có thể ngầm phục kỳ binh trong núi, bất thần đột kích, khiến bọn ta khó mà phòng bị kịp”.



Dương Công Khanh nói: “Chẳng những như vậy, nếu như cần bỏ Kim Dung, hắn vẫn có thể đi xuyên Mang Sơn, vượt qua Đại Hà, trở về thủ ở Hà Dương, đó là một trọng trấn ở miền Hà Bắc, đồng thời cũng là căn cứ quan trọng để bổ sung thêm hậu viện cho đại quân ở tiền tuyến của Lý Mật. Xét về chiến lược, bố cục như vậy là vô vùng chặt chẽ rồi, vì vậy nếu không phải Lý Mật chủ động tấn công, chúng ta căn bản không thể làm gì được hắn. Còn nếu cứ mạo hiểm đánh vào Lạc Khẩu, bị hắn xuất binh công ở Kim Dung công hạ Yển Sư vậy thì đại quân viễn chinh của chúng chỉ còn một con đường toàn quân tan rã mà thôi”.



Lúc này Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã nắm được tình thế của hai phía địch ta và cũng bắt đầu hiểu ra được ảnh hưởng có tính quyết định của vị trí địa lý đến thành bại của cả cuộc chiến.



Dương Công Khanh thở dài: “Vì vậy ta mới luôn ủng hộ kế dụ địch của Khấu tiểu huynh, bằng không nếu để Lý Mật áp sát Đông Đô, dụ chúng ta xuất quân từ Yển Sư, rồi hắn lại lập tức quay ngược về Kim Dung thành, lúc ấy thì chúng ta chỉ có thể trở về Yển Sư, cứ như vậy mấy lần, chúng ta sẽ bị hắn dắt mũi mà đi, mệt mỏi chán nản, không bại mới là chuyện lạ đó”.



Chính vì Khấu Trọng đã sớm biết Lý Mật sẽ giở kế này, nên mới nghĩ ra kế dụ địch, chỉ là tính đi tính lại, cũng không ngờ suýt chút nữa thì Vương Thế Sung mất mạng.



Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Nếu chúng ta cứ cố thủ ở Yển Sư, dựa vào thực lực hiện giờ của Lý Mật, rốt cuộc có cách nào để công phá thành trì không?”.



Dương Công Khanh tự tin nói: “Đám thương binh mệt mỏi của Lý Mật thì làm được gì chứ? Chỉ cần trong thành có đủ lương thảo, ta có thể đảm bảo giữ vững, tuyệt đối không cho quân Ngoã Cương sính cường làm loạn”.




Lúc này hai gã đã đi vào đến sát cửa trại, những chiếc xe còn chưa được kiểm tra đều không được vào trong. Đám binh sĩ canh cửa trông thấy hai gã đều hết sức cung kính, rõ ràng trong lòng họ, hai gã có địa vị rất cao.



Bọn gã hội kiến với Dương Công Khanh và Vương Huyền Nộ trong doanh trại, Linh Lung Kiều đã ra ngoài dò la tình hình quân địch. Khấu Trọng nhân lúc này thỉnh giáo Dương Công Khanh về các vấn đề quân sự, hành quân tác chiến.



Từ Tử Lăng cũng nổi lòng hiếu kỳ hỏi: “Khi chúng tôi còn ở phương Nam, đã từng thấy Đỗ Phục Uy cưỡng bức nông dân nhập ngũ, cực bất nhân đạo, đại quân của Đông Đô có phải cũng vậy không?”.



Dương Công Khanh nhấp một hớp trà nóng, chậm rãi nói: “Từ đời Tần đến Nam Bắc triều, đều lấy trưng binh làm chủ, mộ binh chỉ là phụ trợ thêm mà thôi. Gọi là trưng binh, chính là nam tử thành niên đều phải nhập ngũ, khi không có chuyện thì lao dịch, khi có chiến tranh thì ra chiến trường. Nhưng từ thời Tây Nguỵ thì bắt đầu phổ biến binh chế, thời bình ở nhà sản xuất, lúc nông nhàn thì huấn luyện, mỗi năm phải đến kinh sư hoặc các vùng khác đóng quân một tháng, khi có chiến tranh thì mới phải ra chiến trường. Sau trận chiến thì lại trở về nhà, vũ khí, trang bị, lương thảo đều phải tự lo lấy”.



Vương Huyền Nộ thở dài nói: “Dương Quảng trưng binh liên tục, bắt chiến sĩ phải xa nhà trong thời gian dài, khiến bọn họ không thể chịu đựng được, không phải đào ngũ bỏ trốn thì cũng làm loạn tạo phản, vì vậy cha ta đã đổi sang chế độ mộ binh. Trong thời loạn thế này, chỉ cần có đủ lương thảo, ngân lượng, tự nhiên sẽ có người chịu bán mạng cho mình. Đặc biệt là cấm vệ đội, càng phải cho họ thấy rằng đây là sự nghiệp chung thân, bằng không có nhiều cũng chẳng làm được gì cả”.



Khấu Trọng thắc mắc: “Dựa vào tài lực của Đông Đô, tại sao quân đội lại không nhiều bằng Lý Mật?Chỉ cần bán đi những trân bảo Dương Quảng lưu lại, không phải sẽ chiêu mộ thêm được rất nhiều binh mã hay sao?”.



Dương Công Khanh cười cười: “Ngươi chưa từng nghe câu binh quý hồ tinh bất quý hồ đa hay sao? Lý Mật có trong tay mấy chục vạn quân, lại giở hết âm mưu nguỵ kế, nhân lúc Vũ Văn Hoá Cập hết lương thảo mới đột kích mà vẫn có kết cục thắng thảm, chỉ riêng việc này đã thấy tầm quan trọng của tinh binh thế nào rồi. Cổ nhân có câu: “Binh càng dông thì càng yếu, thưởng càng nhiều thì nước càng nghèo”. Thượng thư đại nhân hiểu rất rõ điều này, nếu như không ngừng tăng binh, sẽ chỉ dẫn đến cục diện binh dư tướng thừa, làm cho sản xuất bị đình đốn, dân chúng không được an sinh”.



Ngưng một chút rồi y lại nói: “Người nhiều cũng vô dụng, lại còn phải lo liệu thêm trang bị lương thưởng nữa, vì vậy mộ binh cần phải chọn lựa nghiêm khắc, đào thải dư thừa, lấy chất lượng làm chủ yếu. Lý Thế Dân liên tiếp thắng trận, cũng là nhờ ở đội kỵ binh Hắc Giáp tinh nhuệ, đột kích bất ngờ làm quân địch choáng váng, nhiều lần lập được kỳ công, nhân số tuy ít nhưng lại không sợ thiên quân vạn mã của địch, chỉ cần trận thế của đối phương rối loạn, đại quân của y sẽ thừa thế tấn công dồn dập, nội ngoại hô ứng, khiến đich nhân phải nuốt hận chốn xa trường”.



Khấu Trọng nghe y nói mà mặt mày rạng rỡ, đến giờ mới hiểu rõ tầm quan trọng của Dương Công Bảo Khố, chẳng trách mà “tiểu quân” hai vạn người của Vương Thế Sung có thể làm Lý Mật uý kỵ đến thế. Đây chính là “nói chuyện với người một buổi, còn hơn đọc mười năm dèn sách”.



Khấu Trọng thấy Dương Công Khanh càng nói càng hứng thú, liền hỏi tiếp về cách tổ chức trong quân đội. Binh thư của Lỗ Diệu Tử tặng gã tinh diệu huyền ảo, nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tế trên chiến trường.



Dương Công Khanh vuốt râu cười cười nói: “Một đạo quân, ít thì hai vạn, nhiều thì vài chục vạn, làm sao mới có thể tổ chức thành một đạo quân mạnh có thể tác chiến trên xa trường? Chỉ có một cách mà thôi. Chính là trị chúng như trị hoả. Đó là năm người một ngũ, năm ngũ thành một hoả, năm hoả thành một đội, hai đội thành một quan, hai quan thành một khúc, hai khúc là một bộ, hai bộ thành một hiệu, hai hiệu thành một tỳ, hai tỳ ghép thành quân. Bất luận là trăm quân hay vạn quân cũng đều thống nhất như vậy, giống như vạn sợi tơ kết thành một mối vậy. Cả đại quân từ tướng đến binh đều xác định rõ cương vị và quan hệ của mình với những người xung quanh”.



Khấu Trọng tán thưởng: “Chẳng trách vừa rồi bao nhiêu người chen chúc trên đường mà không hề xảy ra hỗn loạn”.



Dương Công Khanh nói: “Bất luận là ngũ, hoả, đội, quan, khúc, bộ, hiệu, tỳ, quân hay ngũ, đội, kỳ, tiêu, ty, doanh. Sư, đều chỉ là danh xưng khác nhau mà thôi. Ngoài ra còn phỉa đặt ra người hò hét, người đánh trống, người cầm cờ, đại phu, mã phu, thợ mộc, thợ rèn, tạo thành một hệ thống tác chiến hoàn chỉnh, như vậy mới đủ tư cách ra chiến trường tranh thư hùng với địch nhân được”.



Khấu Trọng đang định lên tiếng hỏi tiếp thì bên ngoài chợt vang lên tiếng ồn ào hỗn loạn, chúng nhân còn đang hoang mang chưa kịp hiểu chuyện gì tì một tên thân binh đã bổ vào báo cáo: “Dương soái, đại sự chẳng lành!”.



Bốn người kinh ngạc nhìn nhau, lẽ nào kỳ binh của Lý Mật đã đến Yển Sư rồi sao?.