Đại Đường Song Long Truyện

Chương 276 : Thành Đô đăng hội

Ngày đăng: 13:15 19/04/20


Một năm thành ấp, hai năm thành đô, chính vì vậy mà nơi này mới có tên Thành Đô.



Năm thứ chín đời Tần Huệ Văn Vương thời Chiến Quốc, Tần Vương đã phái đại phu Trương Nghi, Tư Mã Thác dẫn quân phạt Thục, sau khi chiếm được thì đặt làm Thục quận, lấy Thành Đô làm thủ phủ.



Năm sau, Tần Vương nghe theo Trương Nghi, xây dựng Thành Đô huyện thành.



Nhìn chung thì khi xây thành, người ta lưu ý tới địa thế hiểm trở hoặc thuận lợi về đường thuỷ, chỉ có Thành Đô là không phải vậy, chẳng những không có thế núi hiểm trở, lại càng không tiện lợi về giao thông đường thuỷ, hơn nữa thành lại xây ở vùng trũng của đồng bằng, ẩm ướt nhiều mưa, xung quanh có rất nhiều đầm trạch, toàn bộ đều phải dựa vào nhận lực để cải thiện hoàn cảnh.



Để xây thành, người Thục đã đào một lượng đất lớn ở xung quanh, những nơi bị lấy đất đều thành các hồ lớn, nổi tiếng có Liễu Trì ở thành Tây, Thiên Cảnh Trì ở phía Tây Bắc, Tẩy Mặc Trì, Vạn Tuế Trì ở thành Bắc, và Thiên Tuế trì ở thành Đông, vừa có thể lấy nước để tưới tắm ruộng đồng, lại có thể nuôi cá làm thực phẩm. Ngoài ra, trong thời chiến, những hồ này liền trở thành bình phong che chắn ba mặt Đông, Tây, Bắc cho Thành Đô. Những hồ nước lớn này, cộng với đập Đô Giang do Lý Băng đời Tần Chiêu Vương xây dựng nữa là hình thành một hệ thống thuỷ lợi hết sức đặc biệt, giải quyết gọn ghẽ ba vấn đề khó của Thành Đô, đó là ngập lụt, tưới tiêu và vận chuyển đường thuỷ.



Thành Đô có chu vi hai mươi dặm, tường cao bảy trượng, chia làm Thái Thành và Thiếu Thành. Thái Thành ở phía Đông, rộng bảy dặm, Thiếu Thành ở phía Tây, không đến năm dặm.



Đầu đời Tuỳ, Thành Đô từ Ích Châu tổng quản phủ, đổi thành Thục Quận.



Thái Thành là nơi tập trung quan lại, dân chúng, là trung tâm chính trị, còn Thiếu Thành chủ yếu là khu buôn bán. Nổi tiếng nhất là Nam Thị, các thợ thủ công, phú thương, tiểu thương đều tập trung ở đây buôn bán và an cư.



Trước khi khởi hành, Từ Tử Lăng đã hỏi thăm Bạch Văn Nguyên về tình hình hiện nay của Thành Đô.



Thì ra từ sau khi triều đình sụp đổ, lãnh tụ của tam đại thế lực ở Tứ Xuyên, gồm có Giải Huy của Độc Cô Bảo, Thương Bá Phạm Trác của Xuyên Bang và Hầu Vương Tần Chấn của Ba Minh đã tổ chức một đại hội để quyết định vận mệnh của người Thục, quyết định bảo lưu quan viên và chính thể nhà Tuỳ ở đây, đổi Thục Quận thành Ích Châu để biểu thị sự khác biệt cũ mới, chính quyền mới do tam đại thế lực chống lưng, không xưng vương cũng chẳng xưng bá, chỉ án binh bất động chờ minh chủ xuất hiện.



Nghe nói chuyện này do một tay Võ Lâm Phán Quan Giải Huy tác thành, chỉ riêng chuyện này cũng đã có thể thấy được người này rất có kiến giải, hiểu rõ Tứ Xuyên có địa hình hiểm trở, hơn nữa dân phong lại thuần phác, ưa thích cuộc sống tự cung tự cấp, yên phận chờ đợi, chứ không có duyên tranh hùng tranh bá.



Từ Tử Lăng đi liền ba ngày ba đêm, đến hoàng hôn hôm thứ ba thì vào thành, định nghỉ ngơi một đêm rồi sáng mai mới đến Hoàng Long tìm U Lâm Tiểu Cốc của Thạch Thanh Tuyền.



Thực tế thì nội thương của gã vẫn chưa lành hẳn, rất cần nghỉ ngơi để tĩnh dưỡng tinh thần, chuẩn bị ứng phó với những nguy cơ bất ngờ trước mắt.



Sau khi vào thành, Từ Tử Lăng liền cảm nhận ngay được sự xa hoa phung phí, thanh bình phồn vinh, không tranh giành với đời của người Thục, hoàn toàn đối lập với không khí chiến loạn liên miên ở Trung Nguyên.



Đập vào mắt gã đầu tiên là hoa đăng, khắp nơi đều là hoa đăng, hoa đăng treo trên cửa lớn các cửa tiệm, các ngôi nhà, hoa đăng trên tay người đi đường, đám trẻ nhỏ cũng kết thành từng đám chạy nhảy nô đùa, loại đèn nào cũng có, đường nét tinh xảo, ánh sáng rực rỡ.



Các nữ tử trang điểm xinh tươi như hoa, hoa y lệ phục của các thiếu nữ dân tộc Khương lại càng đậm phong tình nơi đất lạ, tiếng cười đùa hoan lạc vang lên khắp nơi, các cửa tiệm mọc như nấm, kéo dài khắp đường lớn phố nhỏ. Trên con phố chật người, tiếng pháo vang lên liên miên bất tuyệt, khói xanh nghi ngút, không khí lễ tết bao trùm khắp toàn thành.



Từ Tử Lăng thầm tính toán ngày tháng, mới sực nhớ ra hôm nay là Tết Trung Thu, không khỏi ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng đã bị khói lửa làm mờ đi phần nào, trong lòng chợ dâng trào cảm giác thân thiết, nhưng đồng thời cũng cảm thấy mình lạc điệu trong không khí náo nhiệt của nơi này.



Kể từ sau khi rời khỏi Dương Châu, gã và Khấu Trọng đều mất đi tâm tình đón tết, đây có lẽ là một phần trong cái giá phải trả cho bá nghiệp thiên hạ.




Từ Tử Lăng thầm nhủ đã tới lúc rồi, bèn dừng bước, thản nhiên hỏi lại: "Chúng ta đã nhầm sao?".



Không biết có tiếng trống từ nhà nào truyền tới, một đám trẻ con cầm đèn lồng dung dăng đi chơi, không khí ngày tết tràn ngập khắp thành. Không ngờ Trịnh Thạch Như lại nói: "Y thị không những là người của Âm Quý Phái mà còn là sư muội của Loan Loan, địa vị cực cao, quan hệ phu thê với Tiền Độc Quan chỉ là bình phong che đậy thôi. Chuyện này vốn dĩ vô cùng bí mật, thật chẳng ngờ Từ huynh và Khấu huynh lại chẳng tốn chút công sức đã nhìn ra được".



Từ Tử Lăng nhìn y với ánh mặt ngạc nhiên rồi đi thẳng vào vấn đề chính: "Vậy địa vị của Trịnh huynh trong Âm Quý Phái thế nào?".



Sức nhẫn nại của gã đã đến cực hạn, không thể nào kiềm chế được nữa.



o0o



Khấu Trọng liên tiếp chém ra ba đao, đánh cho đám thủ hạ thất điên bát đảo, ngã bổ nhào bổ ngửa ra sân. Đúng lúc này thì thấy Trần Trường Lâm, Lạc Kì Phi, Trần Lão Mưu và Bốc Thiên Chí đến tìm gã, liền hạ lệnh: "Các ngươi tiếp tục luyện tập đi".



Sau khi cùng chúng nhân ngồi xuống trong khách sảnh, gã mới cười cười nói: "Có phải đến mời ta đi thưởng nguyệt Trung Thu không?".



Trần Lão Mưu nhìn mười mấy tên thân vệ do Khấu Trọng đích thân tuyển lựa từ số Giang Nam tử đệ binh của Trần Trường Lâm để huấn luyện, trầm trồ khen: "Thiếu Soái quả có tài luyện binh".



Khấu Trọng ngước lên nhìn khoảng sân rộng sáng ánh trăng, nhớ tới bốn thủ hạ thân tín đã theo mình vận chuyển muối lên phía Bắc năm xưa, ba người đã thảm tử trong tay Âm Quý Phái, một người không biết hạ lạc nơi nào, trong lòng thầm cảm thấy chua xót, chỉ khẽ gật đầu đáp lại.



Lạc Kì Phi vừa mới trở về từ Thanh Lưu, trầm giọng nói: "Sau khi Đỗ Phục Uy về Thanh Lưu thì phái người đi mời Trầm Luân. Trầm Luân cũng đã biết y đột nhiên triệt thoái không công thành, nghi thần nghi quỷ, nên không dám đích thân đi gặp Đỗ Phục Uy mà chỉ phái thủ hạ đi thăm dò. Nghe nói Đỗ Phục Uy chỉ nói mấy câu với sứ giả của Trầm Luân rồi đuổi đi luôn".



Khấu Trọng vỗ bàn nói: "Tên tiểu tử Trầm Luân này thật được việc quá".



Kế đó gã lại ngạc nhiên nói: "Sao cả chuyện trong soái phủ của lão Đỗ mà Kỳ Phi cũng biết rõ vậy?".



Lạc Kì Phi cười cười nói: "Có tiền thì sai khiến quỷ thần cũng được chứ nói gì con người, tại hạ có một đồng hương làm việc trong đó, mấy câu nói đổi một đĩnh vàng, thử hỏi có ai cự tuyệt được chứ?".



Trần Trường Lâm hỏi: "Vậy bước tiếp theo phải làm sao?".



Khấu Trọng dựa lưng vào ghế, nhàn nhã nói: "chúng ta không cần để ý đến Đỗ Phục Uy tiên phát chế nhân đối phó với Trầm Luân thế nào, chỉ cần tập trung hết quân lực phục sẵn trên đường lui quân của tên tiểu tử này, đợi hắn chạy về Giang Nam sẽ bất ngờ đột kích, vừa để Trường Lâm huynh tuyết cừu rửa hận, vừa có thể an toàn rút lui, cho Lý Tử Thông thu thập tàn cục. Đêm nay chúng ta không nghĩ gì nữa, chỉ thưởng trăng uống rượu, sáng sớm mai sẽ lập tức khởi trình. Tính tình lão Đỗ thế nào, ta là người rõ nhất, nhất định y sẽ tốc chiến tốc quyết, không để họ Trầm trở tay đâu".



Chúng nhân liên đồng thanh đáp ứng.



Song mục Trần Trường Lâm sáng rực lên, cơ hồ đã nhìn thấy cảnh tượng Trầm Luân đầu lìa khỏi cổ.