Đại Mạc Thương Lang
Chương 11 : Công trình 723
Ngày đăng: 17:42 19/04/20
Cuộc đời thám hiểm địa chất của tôi kéo dài hai mươi năm, trải qua không dưới vài trăm lần cận kể ranh giới sinh tử.
Nhưng trong kí ức những năm đầu tiên của tôi thì điều đáng sợ nhất không phải những dòng sông ngầm chảy xiết kinh hoàng, mà là sự đơn điệu tột cùng
không gì diễn tả nổi. Đã từng có giai đoạn, tôi chỉ nhìn thấy những dải
núi xanh nối liền rừng rậm trải dài đến bất tận, và vô cùng ngột ngạt.
Cứ nghĩ tới việc phải hành quân trong đó mười mấy năm trời, tôi lại thấy đau khổ, quả thật nếu như không tự mình nếm trải cảm giác đó, thì bạn
khó lòng hình dung hết được.
Nhưng sau sự kiện xảy ra năm 1962,
thì cảm giác này trong tôi liền biến mất như thể nó chưa từng tồn tại.
Đến khi ấy, tôi mới biết rằng, trong những dãy núi hùng vĩ, khô khan
kia, còn tồn tại vô số điều thần bí, mà dẫu bạn sở hữu một trí tưởng
tượng tuyệt vời đến đâu đi chăng nữa, thì có những việc bạn vẫn không
thể nào lí giải nổi. Đồng thời, tôi cũng đã thấm thía những lời kiềng nể mà các bậc tiền bối trong đội khảo sát của chúng tôi nói về rừng xanh
núi thẳm, quả đúng là họ không cố ý phóng đại hay chỉ dọa nạt đơn thuần.
Khởi nguồn của sự việc năm 1962, có thể rất nhiều đồng chí từng làm công tác khảo sát thời điểm ấy đều biết, các bạn đọc trẻ có cha mẹ từng công tác trong ngành này, cũng có thể thử hỏi họ. Thời đó, có một công trình địa chất nổi tiếng, gọi là công trình Nội Mông 723, đó là tên gọi hành động chung của đội công tác tìm kiếm mỏ quặng trong khu vực núi vùng Nội
Mông. Khi ấy, tổng cộng có ba đội khảo sát địa chất được cử đến khu vực
rừng rậm nguyên sinh này để thực hiện nhiệm vụ khảo sát theo từng địa
bàn. Quá trình khảo sát mới bắt đầu được hai tháng, thì công trình 723
đột ngột bị dừng lại. Đồng thời, bộ chỉ huy công trình bắt đầu điều động một số nhân viên kĩ thuật từ các đội khảo sát khác đến. Chỉ trong một
thời gian ngắn, hầu hết cán bộ chủ chốt có tiếng của các đội khảo sát
khắp nơi đều được triệu tập, người thì lập bảng biểu, kẻ thì viết hồ sơ, nhưng không có ai biết được, những bảng biểu, hồ sơ đó cuối cùng gửi
tới đâu và do ai quản lí.
Năm ấy, quả thực có một nhóm cán bộ kĩ thuật được tuyển chọn và điều động đến đại đội trắc địa công trình 723.
Có điều, sau này sự việc đó lại được đồn thổi rất sôi nổi. Người ta truyền nhau rằng, 723 đã đào được ở Nội Mông vật gì ghê gớm lắm, còn cụ thể
đào được vật gì thì có đến mấy chục dị bản, chẳng ai có thể nói chính
xác. Còn những người nằm ngoài sự kiện năm 1962 thì hiểu rằng sự việc sẽ chỉ dừng lại ở đây. Những việc diễn ra sau đó đã bị “cơn cuồng phong”
Cách mạng đại văn hóa cuốn trôi, nên không còn ai tìm hiểu thêm nữa. Và
đoàn cán bộ kĩ thuật được chở đến vùng rừng núi trên chiếc xe tải năm ấy nhanh chóng bị mọi người lãng quên.
Lúc đó, tôi là một trong số
các thành viên của đội cán bộ kĩ thuật địa chất bị người ta lãng quên
ấy. Sau này tôi mới biết, tổng cộng có hai mươi tư người được tuyển chọn và điều động đến 723. Chúng tôi đều tuân thủ lệnh điều chuyển của quân
khu, xuất phát từ khu địa chất mà mỗi người đang làm việc, lên tàu hỏa
tập trung tại Jiamusi[1], một số ít người khác thì đi thẳng đến Qiqihar. Sau khi tập trung tại hai nơi đó, chúng tôi được đưa lên xe quân dụng,
chòng chành chạy từ Hắc Long Giang đến Nội Mông.
[1] Jiamusi, Qiqihar: là hai thành phố thuộc tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc.
Lúc đầu, xe còn chạy trên đường quốc lộ, vài ngày sau, xe dường như chỉ
chạy trên những đoạn đường quanh co ven sườn núi. Trước lúc xuất phát,
Tôi không mấy ấn tượng với người đó, hình như anh ta tên là Vinh Ái Quốc,
khoảng tầm ba mươi, bốn mươi tuổi gì đó. Dân địa chất dầm mưa dãi nắng,
đa phần là già hơn tuổi, nên nhìn mặt khó mà đoán đúng tuổi thật. Anh ta cứ làm ra vẻ bí hiểm. Anh đưa chúng tôi đi xem khắp lượt địa bàn từ đầu chí cuối, nhưng chúng tôi hỏi gì anh cũng chẳng nói, đúng là một người
vô vị.
Chúng tôi chỉ nghe được từ miệng anh ta mấy vấn đề cơ bản, ví dụ như 723 thực chất là công trình đã được triển khai từ ba năm
trước, nhưng vì lí do điều động nhân lực nên mãi tới đầu năm nay mới
chính thức tiến hành, những điều còn lại thì toàn là chuyện ăn ở sinh
hoạt, kiểu như nhà ăn nằm ở đâu, đi vệ sinh như thế nào v.v...
Một tháng trôi qua, tình hình vẫn không có gì tiến triển, chúng tôi nhàn
công rỗi việc ngồi chờ từng ngày trong doanh trại, cũng chẳng ai buồn để ý gì đến chúng tôi. Đúng là hết sức khó hiểu! Cuối cùng, mấy đồng chí
“thâm niên” cũng không thể chịu nổi, dưới sự cổ súy của chúng tôi, họ
năm lần bảy lượt đi tìm gặp Vinh Ái Quốc, nhưng đều bị từ chối bởi đủ
loại lí do.
Lúc này, chúng tôi thực sự cảm nhận một cách nghiêm
túc tính chất đặc biệt của sự việc, ai nấy đều hoang mang, lo sợ. Vài
người còn ngờ rằng, chúng tôi phạm phải tội nào đó, nên phải bị thủ tiêu bí mật. Những tình tiết kiểu này thì trên phim nhan nhản, nghe người nọ kháo người kia, trong lòng chúng tôi không tránh khỏi sự bồn chồn, bứt
rứt. Tất nhiên, hầu hết những phỏng đoán đó chẳng mang chút ý nghĩa nào.
Mới mùa thu mà ở Nội Mông, gió đã lạnh như chích vào tận xương tủy, dân từ
phía nam lên quả là khó thích nghi với cuộc sống ở đây, mọi người liên
tục bị chảy máu cam. Trong trí nhớ của tôi, suốt một tháng trời đó,
chúng tôi ngồi trên giường sưởi[4], gặm bánh ngô tán chuyện, chốc chốc
lại lấy tất rách chùi máu cam, cứ thế, ngày qua ngày.
[4] Giường
sưởi: loại giường xây bằng đất sét, phía dưới có khoang rỗng và có một
cửa nhỏ để đặt bếp lò sưởi ấm. Đây là loại giường phổ biến ở vùng phía
Bắc Trung Quốc.
Một tháng sau, cuối cùng mọi việc cũng thay đổi,
vào một buổi sớm ngày thứ Tư, chúng tôi được dồn lên xe tải trong sự ngơ ngác, mơ hồ, rồi cùng hai xe chở lính công trình khác nối đuôi nhau
chạy vào sâu trong núi.
Lúc đó, lòng tôi chuyển từ cảm giác hưng
phấn, hồ nghi ban đầu sang hoang mang, lo lắng. Tôi nhìn qua lớp vải dù
trên xe quân giải phóng, bên ngoài dãy hàng rào được lắp tạm lên xe, là
núi xanh và rừng nguyên sinh ngút ngàn tưởng như bất tận, nhìn lại trong xe là những người lính công trình với khuôn mặt không chút biểu cảm,
không khí trở nên vô cùng nặng nề. Mọi người không ai nói với ai câu gì, tất cả đều lặng lẽ dựa lưng vào thành xe, chòng chành lắc lư theo mỗi
khúc vòng, chờ cho đến điểm cuối của chặng đường.