Đàn Hương Hình
Chương 34 :
Ngày đăng: 18:10 19/04/20
Tôn Bính cưỡi con ngựa màu táo chín, đi trước dẫn đường. hai chân sau
con ngựa bị trụi một vệt lông vì dây kéo miết vào, chỗ da trụi có màu
đen. Cặp mông gầy giơ xương bám nhoe nhoét phân lỏng. Nhìn thoáng qua,
quan huyện cũng nhận ra đây là loại ngựa kéo cày, chở phân ra đồng, nay
trở thành ngựa chiến của Nhạc nguyên soái. Thương thay cho con ngựa! Đi
trước ngựa là một thanh niên mặt bôi đỏ, tay cầm cây gậy trơn bóng giống cán cuốc. Đi sau ngựa là một thanh niên mặt bôi đen, tay cầm cây gậy
trơn bóng giống cán xẻng. Quan huyện đoán hai người này là Trương Bảo và Vương Hoành, hai nhân vật trong “Chuyện kể Nhạc Phi”. Tôn Bính ngồi
thẳng đuỗn trên lưng ngựa, một tay cầm cương, một tay cầm cây gậy gỗ
táo, điệu bộ rất khoa trương. Tư thế này chỉ hợp với khung cảnh trăng
lạnh biên thùy hoặc mênh mông bình nguyên… với con tuấn mã phi như gió.
Quan huyện nghĩ, rất tiếc là không có ngựa chiến, mà chỉ có một con ngựa già chốc chốc lại ỉa phân lỏng, chỉ có một con đường chật hẹp bụi mù,
một con gà mái đang bới rác, một con chó gầy trơ xương chạy trong ngõ.
Cỗ kiệu đi theo Tôn Bính đến bên một vũng cạn rất rộng ở trung tâm thị
trấn. Quan huyện trông thấy trên mặt đất khô nẻ có vài trăm đàn ông, đội khăn đỏ, thắt lưng đỏ, ngồi im như bụt. Trên một cái bệ xây bằng gạch
vỡ, trước mặt đám đông, mấy người ăn mặc lòe loẹt đang gân cổ hát Miêu
Xoang, làn điệu bi thảm mà lời của nó thì hai bằng tiến sĩ như quan
huyện cũng chịu không rõ nghĩa:
… Chính nam thổi tới
luồng gió xoáy, Hồng Thái úy đã thả bạch miêu tinh. Bạch miêu tinh, lông trắng mắt đỏ bạch miêu tinh! Chỉ hút máu tanh! Thái Thượng Lão Quân đã
hiển linh… Luyện thần quyền bảo vệ Đại Thanh! Giết sạch bạch miêu tinh,
lột da móc mắt, thắp thiên đăng…
Tôn Bính dừng ngựa trước một túp lều bằng chiếu mới dựng bên vũng. Con ngựa lắc lắc cái bờm rối
như lá hẹ, ho khan một hồi rồi khuỵu hai chân sai ỉa ra một bãi phân
lỏng. Mã tiền Trương Bảo buộc ngựa vào gốc liễu đã chết khô, Mã hậu
Vương Hoành đón cây gậy gỗ táo từ tay Tôn Bính. Tôn Bính ngó kiệu của
quan huyện, biểu thị một thái độ vừa kiêu kỳ vừa ngu xuẩn. Phu kiệu hạ
đòn khiêng, vén rèm, quan huyện vén áo chui ra. Tôn Bính ngênh ngang
bước vào trong lều, quan huyện theo sao.
Trong lều thắp hai cây
nến, ánh nến leo lét, soi sáng một tranh tượng treo trên vách. Thần
tượng trong tranh, đầu cài lông trĩ, mặc mãng bào, cầm có bộ râu đẹp, ba phần giống Tôn Bính, bảy phần giống quan huyện. Quan huyện nhiều năm
dan díu với Tôn Mi Nương, nên hiểu rất sâu lịch sử Miêu Xoang. Ông biết
người trong tranh là Thường Mậu, ông tổ Miêu Xoang, giờ đây Tôn Bính
thỉnh về làm thần hộ mệnh cho Nghĩa hòa quyền. Quan huyện vừa bước vào
trong lều thì nghe có tiếng thị uy phát ra từ trong bóng tối, định thần
nhìn kỹ, thấy tám man đồng đứng hai bên, bốn mặt đỏ, bốn mặt đen, quần
áo trên người cũng bốn đen bốn đỏ, cựa một cái là sột soạt như bằng
giấy. Quả nhiên là bằng giấy. Các man đồng đều cầm gậy, và đều là cán
cuốc. Quan huyện càng coi thường Tôn Bính, tưởng nhà ngươi có cái gì mới mẻ kia, té ra vẫn mấy cái trò lăng nhăng quen thuộc trên sân khấu ở
nông thôn. Nhưng ông biết, người Đức không cho là lăng nhăng, triều đình và Viên Thế Khải không cho là lăng nhăng, hơn ba nghìn trấn Mã Tang
không cho là lăng nhăng, những thanh niên thường trực trong lều không
cho là lăng nhăng, người cắm đầu là Tôn Bính càng không cho là lăng
nhăng.
Cùng với tiếng thông báo, Tôn Bính khệnh khạng bước tới
chiếc ghế co tay vịn bằng gỗ pơ mu, điệu bộ rất kịch, ngồi xuống vá dài
giọng hỏi:
- Tướng kia hãy thông báo họ tên!
Quan huyện cười nhạt:
chuyện Mi Nương với ai. Với Xuân Sinh và Lưu Phác, ông chỉ dặn đem theo
một cỗ kiệu hai người, trong kiệu để một tảng đá.
Mặt trời đã
lên cao, Caclôt rất sốt ruột, chốc chốc lại xem đồng hồ và qua phiên
dịch, gặng hỏi xem liệu Tôn Bính có giở trò gì không? Quan huyện ậm ừ
cho qua chuyện, không trả lời thẳng vào câu hỏi. Lòng như lửa đốt, nhưng bên ngoài ông cố làm ra vui vẻ thoải mái, nhờ anh chàng phiên dịch cằm
nhọn:
-Ông giúp tôi hỏ tiên sinh Caclôt một câu, sao mắt ông ta xanh thế?
Anh chàng phiên dịch ngớ ra, không biết đối phó ra sao. Thế là quan huyện cười khanh khách.
Một đôi chim khách líu ríu trên cây liễu đầu sông, lông cánh màu sắc phân
minh, trắng đen rành rẽ, thấp thoáng giữa đám tơ liễu buông mành, đẹp
như tranh thủy mạc. Bên kia sông có mấy người dân đẩy xe, gồng gánh từ
con đường nhỏ lên mặt đê, nhưng khi lên đến nơi, trông thấy con ngựa cao lớn của Caclôt và cỗ kiệu bốn người của quan huyện, họ hốt hoảng quay
lui.
Giữa trưa, trên con đường đất mạn bắc, một đoàn rồng rắn đi lại. Caclôt vội lấy ống nhòm ra xem, quan huyện cũng đưa tay lên ngang
mày che nắng để nhìn. Ông nghe tiếng Caclôt kề bên:
-Tiền, không có, tại sao không có?
Quan huyện đón chiếc ống nhòm từ tay Caclôt, đoàn người xa xa hiện ra trước
mắt. Ông thấy Tôn Bính vẫn mặc trang phục sân khấu rách tả tơi, vẫn cây
gậy gỗ táo, vẫn con ngựa già, nụ cười trên mặt không hiểu là ngu si hay
ranh mãnh! Đi trước ngựa vẫn là Trương Bảo gầy như khỉ, đi sau ngựa vẫn
là Vương Hoành ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới cưỡi ngựa
đi sau. Sau lưng họ có bốn thợ kèn, hai thổi Sôlana, hai thổi kèn bầu.
Sau nhóm kèn là cỗ xe bánh gỗ do la kéo, trên xe quây kín bằng chiếu
cói. Sau cỗ xe là một đám hơn chục người đội khăn đỏ, tay cầm súng. chỉ
người Đức là không thấy. Quan huyện lạnh người, mắt nhòa đi, tuy đúng
như đã lường trước, nhưng ông vẫn le lói tia hy vọng, rằng trong xe có
ba người Đức. Quan huyện trả ống nhòm cho Caclôt, tránh cái nhìn của lão ta. Ông ước lượng sức chứa của cỗ xe để xem liệu có ba người Đức ở
trong đó không? Ông nghĩ đến hai kết quả, một, trên xe có ba lính Đức;
hai, trên xe có ba cái xác lính Đức. Ông vốn không mê tín trời đất quỉ
thần, nhưng lúc này ông thầm xin trời đất thần linh phù hộ ba tên lính
Đức xuống xe yên lành, hoặc khiêng xuống cũng được, chỉ cần còn hơi thở, sự việc sẽ được giải quyết đâu vào đấy. Nếu xuống xe là ba cái xác thì
hậu quả sẽ ra sao, quan huyện không dám nghĩ tiếp. Rất có thể là trong
cuộc đổ máu, một cuộc đại tàn sát, lúc ấy thì cá nhân thăng gián ra sao
có đáng kể gì!
Trong lúc quan huyện suy nghĩ miên man, thì đội
ngũ của Tôn Bính đã kế cận đầu cầu. Giờ thì không cần ống nhòm, quan
huyện cũng nhìn rõ từng chi tiết. Ông quan tâm cỗ xe bí hiểm. Lắc lư
trên con đường gồ ghề, cỗ xe chở cái gì rất đáng kể, nhưng không thật
nặng. Hai bánh cao lêu đêu chậm rãi lăn, phát ra tiếng kin kít. Đoàn
người đến đầu cầu thì dừng lại, đội kèn cũng dừng thổi. Tôn Bính thúc
ngựa lên mặt đê, cao giọng tự bạch:
-Ta, Nguyên soái Đại Tống Nhạc Phi. tướng kia mau xưng rõ tên họ?