Đạo Mộ Bút Ký
Chương 31 : Lão Dương ra tù
Ngày đăng: 13:30 19/04/20
Editor: Biển
Beta: Thanh Du
*****
Chỉ vài chữ ngắn gọn lại thu hút toàn bộ sự chú ý của tôi.
“Cá ở chỗ tôi…”
Cá gì? Chẳng lẽ là Xà mi đồng ngư?
Theo hình vẽ khắc trên đá trong cổ mộ, ba con Đồng ngư kỳ lạ này có đầu đuôi nối liền với nhau, hiện giờ trong
tay tôi đã có hai con, hẳn là còn một con Đồng ngư nữa đồng bộ với hai
con này. Ý nghĩa của câu nói khó hiểu trên là gì? Không phải là muốn ám
chỉ con cá cuối cùng đang nằm trong tay hắn đấy chứ?
Người đưa ra thông tin đã có tấm hình
này, lại biết cả chuyện về Đồng ngư, liệu có phải là một trong số những
người mất tích vào năm đó hay không?
Tôi cẩn thận
xem qua trang web một lượt, thời gian đăng tin là hai năm trước. May mà
trang web này chưa bị đóng cửa, không thì thông tin này chắc chắn đã sớm biến mất trên mạng rồi. Nhưng thông tin này ngoài một câu đó ra thì
không có bất cứ chữ ký hay phương thức liên lạc nào khác.
Tôi cảm thấy có phần khó hiểu, nếu là tìm người sao lại không để lại cách thức liên lạc, thế này chẳng phải là phí công sao?
Tôi chuyển sang lục lọi trên Google, hy
vọng có thể tìm được nhiều thông tin hơn, nhưng lục đi lục lại một hồi
cũng chỉ tìm được duy nhất một tin ấy.
Tôi không khỏi chán nản, song đây đã là
phát hiện lớn lắm rồi, ít ra có thể chứng tỏ vẫn có người biết đến
chuyện của 20 năm trước, vậy thì người này rốt cuộc là ai?
Không lâu sau, cơn bão chết tiệt kia cuối cùng cũng chịu tan. Ngày hôm sau, có tàu Quỳnh Sa xuất phát từ Thanh
Lan thuộc Văn Xương ghé qua, chúng tôi thấy không thể chờ mãi ở đây, bèn thu dọn hành lý chuẩn bị trở về.
Trước lúc rời đi chúng tôi có đến quân y
viện tìm A Ninh nhưng không thấy, hỏi bác sĩ mới biết mấy ngày trước,
lúc cơn bão vẫn chưa dứt, có một người nước ngoài đội mưa bão đột ngột
xuất hiện đón cô ấy đi rồi, ông ấy còn tưởng người đó đi cùng chúng tôi. Hơn nữa gió lớn làm đứt dây điện thoại, mà chỗ bọn họ thì không ai rảnh rỗi đi làm việc tốt nên cũng không thông báo cho chúng tôi.
Trong lòng tôi hiểu rõ, hẳn là người tiếp ứng của A Ninh trên đảo đã đưa cô ấy đi. Mấy ngày qua hòn đảo nhỏ này
bị bão cô lập, dù chúng tôi có muốn ngăn cản cũng đành chịu.
Bàn Tử bực tức mắng mỏ, nói thế là quá dễ dàng cho cô ả rồi. Tôi thì không khỏi thở phào nhẹ nhõm, vì tôi vốn
không biết nên xử trí cô ấy như thế nào cho phải, giết thì dĩ nhiên
không được, cũng không thể nghiêm hình bức cung. Chuyện xảy ra thế này
chính ra lại hợp ý tôi, đi thì đi đi, dù sao cô ta cũng đâu có làm gì
được chúng tôi.
Có điều, hình như công ty của họ vào hải
đấu không chỉ đơn giản là đi cứu người, rốt cuộc bọn họ có mục đích gì?
Giữa chú Ba và bọn họ đã xảy ra chuyện gì? Những người còn lại hiện giờ ở đâu? Những bí mật còn bị che giấu không biết đến khi nào mới lộ ra khỏi mặt biển Tây Sa tĩnh mịch xanh thẳm.
Nói tóm lại, chúng tôi theo tàu Quỳnh Sa
vòng về đại lục. Hai ngày sau, tại sân bay ở hải cảng, tôi chia tay với
Muộn Du Bình và Bàn Tử, lên máy bay đi Hàng Châu. Cuộc sống hiện đại
thật là thuận tiện, bốn tiếng đồng hồ sau tôi đã về đến nhà.
Hoạt động mạnh liên tục trong thời gian
dài đã khiến tôi kiệt sức, mấy ngày sau đó tôi ngủ mê man, mỗi ngày chỉ
thức dậy có một lần, đều là bị cơn đói đánh thức, sau đó vớ đại thứ gì
đó trong tủ lạnh để bỏ bụng, ăn xong lại lăn ra ngủ, thấm thoắt đã qua
hai tuần. Có người bạn còn tưởng tôi đã chết dí trong nhà bèn tìm đến,
tôi mới chợt nhận ra mình đã nghỉ ngơi đủ rồi.
Ngủ quá nhiều nên cả người tôi đều khó
chịu. Đầu tiên tôi gọi điện thoại cho Vương Minh hỏi về tình hình làm ăn của cửa hàng, ngoại trừ buôn bán ế ẩm ra thì tất cả bình thường. Thật
ra thì buôn bán ế ẩm cũng là chuyện dễ hiểu, ông chủ đi vắng mà buôn may bán đắt mới là lạ. Sau đó tôi lại gọi cho cô Ba, bà Sáu, dượng Bảy, hễ
là người thân thích có lui tới với chú Ba tôi đều hỏi qua một lượt, xem
thử họ có biết hiện giờ chú Ba đang ở đâu không, nhưng đều không có kết
quả. Cuối cùng tôi gọi đến cửa hàng của chú Ba, một cậu nhân viên của
chú nhận điện thoại, tôi hỏi: “Chú Ba tôi đã trở lại chưa?”
Cậu ta chần chừ một chút mới đáp lời:
“Ông Ba vẫn chưa trở lại, nhưng có một quái nhân tự xưng là anh em với
cậu, hỏi chúng tôi cậu đang sống ở đâu. Tôi không biết lai lịch hắn như
thế nào, nhưng trông hắn có vẻ gian gian, không giống người tốt nên tôi
đã thay cậu đuổi hắn đi rồi. Trước khi hắn đi có để lại một số điện
thoại, hay là cậu cứ gọi thử xem sao?”
Tôi ngẩn ra một chút, trong lòng cảm thấy kỳ lạ, tôi có rất nhiều bạn bè sơ giao ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng
biết tìm đến chỗ chú Ba để hỏi tin tôi thì cũng không được mấy người,
suy nghĩ một chút bèn hỏi hắn: “Người đó bao nhiêu tuổi?”
“Tôi không nói chính xác được, đại khái
Họ vẫn chưa từ bỏ ý định, lại tiếp tục
đào, rất nhanh đã đào sâu đến mười mét nhưng vẫn không tìm được thứ gì
tốt. Mà hố đất đào thẳng xuống hơn mười mét là đã đến giới hạn, nếu còn
đào xuống tiếp nữa, có nguy cơ cả đạo động sẽ sụp xuống, bọn họ không
thể không ngừng lại.
Anh họ hắn khá là thận trọng, mới nói ta
đào mãi vẫn không tìm được gì, chỉ sợ thời có cái đàn tế này người ta
không dùng tế phẩm bằng thanh đồng, đừng đào nữa, hốt mớ đổ nát này về
bán đi cũng đủ gỡ vốn, coi như chúng ta đi chuyến này xui xẻo vậy.
Nhưng lão Dương không cam lòng, mặc kệ
ông anh họ nói gì, hắn vẫn muốn tiếp tục đào. Lão Dương để cho anh họ
leo lên, còn mình thì đào thêm gần hai giờ nữa, sâu đến khoảng mười bốn
mét, bỗng nhiên nghe keng một tiếng, xẻng của hắn đụng phải một khối kim loại.
Hai anh em liếc mắt nhìn nhau rồi đồng loạt nhìn xuống, phát hiện ngay giữa hố đất lộ ra một khối màu xanh thẫm.
Quả nhiên là có đồ thanh đồng. Lão Dương
bỗng thấy hồi hộp, đến tay cũng run rẩy. Anh họ hắn reo lên vui sướng,
vội quẳng xẻng đi rồi nhảy vào trong hố, hai người bắt đầu dùng tay đào
thứ đó lên.
Rất nhanh, một thứ kỳ lạ xuất hiện ngay
trước mắt hai người. Trông nó giống như một cây gậy bằng đồng, nhưng
không biết cụ thể là gì. Bọn họ phải phủi sạch lớp than và đất bám bên
ngoài mới nhìn ra nó là một nhánh cây tinh xảo được đúc bằng thanh đồng.
Hai anh em vui mừng khôn xiết, họ chưa
từng được thấy qua thứ này, chắc chắn là rất đáng tiền. Hai người vội
dùng tay đào vòng xung quanh để lấy thứ đó lên, nhưng đào xuống mấy mét
vẫn không rút nó ra nổi. Tiếp đó họ đành dùng xẻng để đào, đào tiếp sáu
bảy mét nữa vẫn chưa thấy được phần gốc của nhánh cây.
Lão Dương bắt đầu cảm thấy kỳ quái, hắn
từng buôn bán đồ cổ một thời gian nên cũng biết rất hiếm có món đồ thanh đồng nào dài quá ba mét. Nhưng thứ ngay trước mắt hắn thì thật dị
thường, ước chừng phải cao đến hai mươi mét, không biết còn chôn bao sâu dưới lớp bùn đất này.
Đạo động đã sâu gần hai mươi mét, còn cố
đào sâu nữa chắc chắn sẽ sập, nhưng tay không trở về thật sự chẳng phải
là chuyện dễ chịu gì. Hai người mờ mịt đứng ngây ra đó, không biết nên
làm gì cho phải.
Cuối cùng, anh họ hắn nghĩ ra được một
cách. Tại phần đất cách gốc của cây đồng khoảng hơn một mét, anh ta hạ
xẻng Lạc Dương hướng xiên về phía cây đồng, sau đó tiếp tục nối thêm ống thép hạ xiên xuống, hạ một hơi đến gần mười mét, tiếng gõ ống bắt đầu
trở nên nặng nề rồi không gõ thêm được nữa.
Lão Dương nói đến đó, nét mặt trở nên khó xử, bèn châm điếu thuốc hít vào một hơi dài, nói: “Vậy có nghĩa là phần chôn dưới đất của nhánh cây kia còn sâu trên mười mét, suy ra cả cây ít nhất phải cao đến ba mươi mét; một vật lớn như vậy, dù có đào ra được
thì cũng không vác về nổi.”
Tôi nghe xong líu cả lưỡi, cảm thấy tên
này cũng có khoa trương thêm ít nhiều. Ti Mẫu Mậu Đỉnh (1) khai quật
được ở Hầu gia trang thôn Võ Quan, An Dương, Hà Nam là món đồ đồng lớn
nhất cả nước, cũng chỉ cao hơn một mét. Thời đó muốn đúc một thứ lớn như vậy đã cần đến sức lực của gần hai ba trăm người, vậy cần đúc một cây
thanh đồng cao hơn ba mươi mét chẳng phải là cần huy động đến hàng vạn
người sao?
Nhưng thấy hắn nói nhiều như vậy tôi cũng không nỡ bẻ lại, bèn hỏi: “Vậy sau đó thì sao? Có tiếp tục đào xuống nữa không?”
Lão Dương nói: “Không, tôi còn định đào
nữa, nhưng anh họ tôi lại đột nhiên nói thứ này có thể là thần vật,
không chừng là mọc ra từ trong lòng đất, không thể đào được. Sau đó tôi
lại nghĩ có tiếp tục đào nữa cũng không an toàn nên thôi… cậu thấy có lạ không? Tôi đoán gốc cây đó chỉ là phần trên của một món đồ thanh đồng
cực lớn, phần bên dưới có lẽ còn lớn hơn nữa; nếu đào hết ra, có lẽ sẽ
chấn động cả thế giới.”
Tôi cảm thấy khó hiểu: “Vậy là cậu không mang được cây thanh đồng kia ra, thế sao lại bị tóm?”
Hắn đáp: “Chuyện này nói tiếp lại thấy kỳ lạ, khi ấy chúng tôi không cam lòng, đào tiếp mấy hố nữa ở chỗ khác,
cuối cùng đào ra được một mớ bát gáo nồi chậu nguyên vẹn, sau khi ra
khỏi Tần Lĩnh thì kiếm chỗ để tẩu tán. Nhưng anh họ tôi sau khi thấy vật kia thì thần kinh bắt đầu có vấn đề, vừa vào nội thành anh ấy đã nói
oang oang cho người ta biết chuyện về nhánh cây thanh đồng. Dân vùng Tần Lĩnh xưa nay vốn có ác cảm đối với đám đào trộm mộ, tin đồn cũng lan
truyền rất nhanh. Lúc chúng tôi vừa ra khỏi một tiệm đồ cổ, có mấy người nghe anh họ tôi nói lung tung, nhìn ra thân phận của hai anh em liền
chạy đi tố giác! May mà anh công an đi bắt người là đồng hương của chúng tôi, thấy tôi còn trẻ nên bày vẽ cho tôi nói là “bị người ta lừa” mới
gỡ được thành án ba năm. Còn anh họ tớ vốn cũng chỉ chịu án bốn năm năm
thôi, ai ngờ ổng tự dưng nổi cơn điên, bao nhiêu chuyện đổ đấu từ trước
đến giờ đều phun ra hết, cuối cùng lãnh án chung thân, thiếu chút nữa là dựa cột rồi.”
Tôi “Ồ” một tiếng: “Cậu làm nghề này bao
lâu sao chẳng có tí kinh nghiệm nào, thế mà tôi còn tưởng cậu đem mấy
món đồ đó về đến tận nhà chứ. Tôi đã nói với cậu không biết bao nhiêu
lần rồi, đừng có tẩu tán minh khí ngay gần đó. Đã làm nghề không đàng
hoàng rồi, lại còn nhằm ngay vào dân bản xứ, cái này gọi là quả báo nhãn tiền đó.”
Lão Dương thần bí cười: “Cũng… cũng không thể nói là tôi không vớ được… được gì, cậu xem thứ này đi… thế nào?”,
nói rồi chỉ vào khuyên tai mình đang đeo!