Địa Đồ Di Cốt

Chương 11 : Ngày thứ ba

Ngày đăng: 16:31 19/04/20


Alexandria



Ngày 26 tháng 7; 7 giờ 5 phút



Trên biển Địa Trung Hải



Họ sẽ tới Ai Cập trong hai giờ nữa.



Trên chiếc máy bay tư nhân. Gray kiểm tra lại túi đồ nghề của mình. Giám đốc Crowe đã cố gắng cung cấp thêm cho họ trang bị và vũ khí mới. Ngay cả những chiếc máy tính xách tay. Ông giám đốc còn có cái nhìn xa hơn nên đã điều cho họ một chiếc máy bay cho thuê loại Citation X từ Đức xuống sân bay quốc tế Leonardo Da Vinci.



Gray nhìn đồng hồ. Họ đã cất cánh cách đây được nửa tiếng. Họ còn lại hai tiếng trước khi hạ cánh xuống Alexandria để bàn bạc công chuyện. Vài giờ đồng hồ ở Rome cũng giúp cho họ lấy lại sức khoẻ và tinh thần. Họ xuất phát trước lúc rạng đông, lẳng lặng rời khỏi Vatican không báo cho ai biết.



Giám đốc Crowe đã bố trí đi Morocco. Rồi ông dùng quan hệ cá nhân của mình với Văn Phòng Thám không Quốc gia đổi tín hiệu bay vào giữa chặng khi họ quay sang Ai Cập. Đó là những gì tốt nhất họ có thể làm để che dấu lộ trình.



Giờ thì họ chỉ còn một chi tiết để quyết định.



Bắt đầu tìm kiếm ở Alexandria như thế nào?



Để trả lời câu này, khoang ca-bin của chiếc máy bay đã trở thành nơi nghiên cứu, hoạch định chiến lược. Kat, Rachel và Vigor tất cả ngồi chồm chỗm trên bàn làm việc. Monk đang ở khoang lái, phối hợp các khâu vận tải và hậu cần một khi hạ cánh. Anh chàng cũng đã lôi khẩu Scattergun mới ra kiểm tra. Giờ thì anh mang theo nó luôn. Đã có lúc, Monk tuyên bố: “Tôi cảm thấy trần như nhộng nếu không có nó. Và hãy tin tôi đi, bạn chẳng muốn điều đó đâu.”



Lúc này, Gray có việc điều tra riêng phải tiến hành. Mặc dù nó không trực tiếp liên quan đến chuyện trước mắt. Anh dự định nghiên cứu sâu hơn về sự bí hiểm của những chất siêu dẫn ở trạng thái -m.



Nhưng đầu tiên….



Gray đứng dậy bước tới nhóm ba nhà nghiên cứu. “Thế nào đã có tiến triển gì chưa?” Anh hỏi.



Kat trả lời: “Chúng tôi phải chia nhau ra. Đào bới mọi tài liệu tham khảo và văn kiện liên quan bắt đầu từ khi Alexander sinh ra cho đến khi chết và rồi đến chuyện mất tích ngôi mộ của ông ta.”



Vigor dụi mắt. Ông là người ít ngủ nhất trong nhóm. Chưa đầy một tiếng. Vị linh mục đã dành thời gian để nghiên cứu sâu hơn từ những đống tài liệu ở Thư viện Vatican. Ông đoán chắc rằng gã viện trưởng của Viện Cơ mật, tên tiến sĩ phản bội Alberto Menardi, là bộ óc bậc thầy đứng đằng sau, giải đáp mọi điều rắc rối cho bọn Long Đình. Ông hy vọng dò dẫm theo vết chân của y may ra có thể lấy được thêm chút thông tin gì chăng. Nhưng kết quả chưa được là bao.



Kat tiếp tục: “Bí hiểm vẫn bao quanh Alexander. Ngay cả cha mẹ ông ta. Mẹ của ông là một phụ nữ có tên Olumpias. Cha là vua Phillip II của Macedonia. Nhưng ở đây có vài điều chưa nhất quán. Alexander đã từng tin rằng cho ông là một vị thánh có tên Zeus Ammon và bản thân ông cũng một nửa là thánh.”



“Thật chả mấy khiêm tốn” Gray nhận xét.



“Ông ta là một con người có rất nhiều mâu thuẫn.” Vigor nói: “Luôn bị sa vào các cơn giận dữ vì say rượu nhưng lại rất thận trọng trong tính toán chiến lược. Dữ dội trong tình bạn nhưng có thể giết người khi nổi cáu. Ông ta đùa cợt với đồng tính luyến ái nhưng lại lấy hai vợ; một người là vũ nữ Ba Tư, còn người kia là con gái một vị vua Ba Tư, việc lấy người vợ thứ hai là một cố gắng nhằm hợp nhất giữa Ba Tư và Hy Lạp. Nhưng quay trở lại cha mẹ ông ta. Nhiều người biết rằng mẹ và bố ông ta ghét nhau. Một vài nhà lịch sử còn cho rằng Olympias có nhúng tay vào vụ ám sát vua Phillip mà chính lại là con trai của một nhà phù thủy Ai Cập trong triều, có tên là Nectanebo…”



“Một thầy phù thủy… giống như nhà thông thái?” Gray hiểu được điều ám chỉ.



“Dù cha mẹ ông ta là ai đi nữa, Alexanderr sinh vào ngày 20 tháng 7, năm 356 trước Công nguyên…” Kat tiếp tục.



Vigor nhún vai “Nhưng ngay cả điều ấy cũng chưa chắc đã là thực. Cũng chính ngày đó, ngôi đền Artemis ở Ephesus bị đốt cháy rụi. Một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại. Nhà sử học Plutarch đã viết rằng do chính bản thân Artemis vì quá bận rộn chăm lo việc sinh Alexander nên lãng quên giúp ngôi đền khỏi sự đe dọa. Một vài nhà học giả lại cho rằng sự lựa chọn ngày tháng chỉ để nhằm tuyên truyền, ngày sinh thực sự của ông ta đã được dịch chuyển để xứng với sự kiện này, mô tả nhà vua như một con phượng hoàng cất cánh từ đống tro tàn.”



“Và đúng là một sự vươn lên,” Kat nói “Alexander chỉ sống đến năm ba mươi ba tuổi nhưng trong cuộc đời ngắn ngủi của ông đã chinh phục hầu hết thế giới được biết đến lúc đó. Ông đã đánh bại vua Darius của Ba Tư rồi đi đến Ai Cập, nơi ông sáng lập Alexandria, sau đó rời sang Babylon.”



Vigor kết thúc: “Thế rồi ông ta di chuyển theo phía đông tới Ấn Độ để chinh phục vùng Punjab. Cũng chính vùng đất này Thánh Thomas đã làm lễ rửa tội cho ba vị Tiên tri.”



“Thống nhất Ai Cập và Ấn Độ” Gray nhận xét.



“Liên thông dòng kiến thức cổ đại.” Rachel nói từ chiếc máy tính xách tay. Cô không ngẩng mặt lên, vẫn tập trung nghiên cứu, lưng hơi gập xuống.



Gray thích kiểu ngồi như vậy, từ tốn chẳng vội vã chút nào.



Có lẽ cô cũng biết anh đang nhìn mình. Không ngoái đầu lại, chỉ thoáng liếc nhìn rồi lại quay đi.



“Ông ta… Alexander thậm chí còn tìm kiếm các nhà học giả Ấn Độ, dành rất nhiều thời gian cho các buổi luận đàm triết học. Ông rất quan tâm đến các bộ môn khoa học mới, chính ông cũng đã được Aristotle dạy dỗ.”



“Nhưng cuộc đời của ông rất ngắn ngủi” Kat tiếp tục, thu hút sự chú ý của Gray. “Ông chết vào năm 323 trước Công nguyên ở Babylon, trong những hoàn cảnh rất bí hiểm. Có người nói ông chết vì lý do tự nhiên, nhưng lại có người cho rằng ông bị đầu độc hoặc thậm chí chết vì dịch bệnh.”



“Người ta cũng nói rằng,” Vigor bổ sung: “Nằm trên giường bệnh trong hoàng cung ở Babylon, ông nhìn ra khu vườn treo nổi tiếng của thành phố, một cái tháp với những vườn cảnh kỳ thú trên mái nhà và thác nước. Một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.”



“Vậy là cuộc đời của ông ta bắt đầu từ việc khởi thủy của cái này và kết thúc với sự hủy diệt của cái khác.”



“Điều đó cũng có thể là ngụ ngôn” Vigor nói, ông gãi gãi bộ râu dưới cằm “Nhưng lịch sử của Alexander có vẻ gắn bó một cách kỳ lạ với bảy kỳ quan thế giới. Ngay cả việc lập ra bảy kỳ quan thế giới lần đầu tiên cũng do một học giả ở Alexander tên là Cllimachus của Cyrene làm vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên. Bức tượng đồng cao ngất ở Rhodes, một kỳ quan thế giới nữa, một pho tượng khổng lồ vắt ngang hải cảng, tay giơ cao ngọn đuốc cháy sáng được thiết kế theo nguyên mẫu Alexander Đại đế, giống như bức tượng thần Tự do của các ngài. Rồi bức tượng thần Zớt ở Olympia cũng cao đến bốn tầng làm bằng vàng và cẩm thạch. Theo như chính lời của Alexander có thể đó là cha đẻ của ông ta. Không còn nghi ngờ gì nữa Alexander đã đến thăm những Kim tự tháp ở Giza. Ông ta đã dành trọn mười năm ở Ai Cập. Như vậy dấu tay của Alexander có thể nhìn thấy trên khắp các tác phẩm bậc thầy của thế giới cổ đại.”



“Liệu điều đó có ý nghĩa gì không?” Gray hỏi.



Vigor nhún vai “Tôi không thể nói được. Nhưng Alexander đã có thời là quê hương của một trong bảy kỳ quan thế giới, cái cuối cùng được xây dựng cho dù nó không còn tồn tại nữa. Ngọn hải đăng Pharo của Alexandria. Nó nhô lên từ một triền đất trải dài trên cảng Alexandria, chia cái vịnh thành hai nửa. Đó là một cái tháp cao ba tầng được xây bằng những tảng đá vôi. Trên cùng có một ngọn lửa cháy trên một cái lò than được khuếch đại bằng một tấm gương bằng vàng. Nó có thể hướng dẫn thuyền bè từ khoảng cách xa tới năm mươi kilômét. Cho đến tận ngày nay, cái tên hải đăng cũng gắn với kỳ quan này. Trong tiếng Pháp nó được gọi là phare, còn tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý gọi là pharo.”



“Thế cái đó liên quan đến công cuộc tìm kiếm ngôi mộ của Alexander của chúng ta như thế nào?” Gray hỏi.



“Chúng ta hướng tới Alexandia,” Vigor đáp: “Truy đuổi theo dấu vết do một hội cổ xưa của các nhà Tiên tri để lại. Tôi không thể không nghĩ rằng ngọn hải đăng này, biểu hiện ngời sáng của ánh sáng dẫn đường, rất có ý nghĩa đối với nhóm này. Cũng có một truyện chung quanh ngọn hải đăng rằng thứ ánh sáng vàng của nó có sức mạnh đến nỗi có thể thiêu cháy cả những chiếc thuyền dù ở một khoảng cách xa. Có thể chuyện này ám chỉ cái gì đó về một nguồn năng lượng chưa được biết đến.”



Cuối cùng Vigor thở dài rồi lắc đầu: “Nhưng vì sao tất cả những thứ này đều treo với nhau cả, tôi không thể biết.”



Gray đánh giá cao kiến thức của vị linh mục, nhưng anh cần có những thông tin cụ thể, một điều gì đấy để theo đuổi một khi họ tới Alexandria. “Vậy thì chúng ta hãy đi thẳng vào trung tâm của sự bí hiểm. Alexander chết ở Babylon. Nhưng điều gì xảy ra sau đó?”



Kat ngước mắt khỏi màn hình máy laptop. Cô chỉ tay vào một danh sách vừa lập ra.



“Có nhiều tham khảo lịch sử liên quan đến việc rước xác của ông ta từ Babylon về Alexandria. Sau khi được an táng tại Alexandria, ngôi mộ đã trở thành đền thờ để nhiều danh nhân đến thăm viếng, trong đó có cả Julius Caesar và hoàng đế Caliguta.”



“Thời gian đó,” Vigor nói tiếp “thành phố này do một trong những tướng lĩnh trước kia của Alexander, tên là Ptolemy, cai trị và những người kế tục ông ta. Họ dự kiến xây dựng một thư viện của Alexandria, biến thành phố thành nơi tập trung của nghiên cứu trí tuệ và triết học, thu hút các học giả từ khắp nơi trên thế giới.”



“Điều gì đã xảy ra với ngôi mộ?”



“Đó là một chuyện phức tạp,” Kat nói. “Ngôi mộ được cho là có một cái quan tài khổng lồ bằng vàng.”



“Có thể là vàng thủy tinh,” Gray nói “một trong trạng thái của chất bột ở trạng thái –m.”



Kat gật đầu: “Vào đầu thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, Septimus Severus đã đóng cửa ngôi mộ không cho tham quan nữa, xuất phát từ lý do bảo đảm an toàn của ngôi mộ. Thật thú vị khi nói rằng ông ta đã xếp nhiều pho sách quý và bí mật vào trong rương – đó là một câu trích dẫn”. Cô ngả người về chiếc laptop. “Vậy là không ai có thể đọc những cuốn sách cũng như nhìn thấy xác của ông ta.” Cô liếc nhìn Gray. “Điều này đã chứng minh là có cái gì đó quan trọng được giấu trong địa điểm của ngôi mộ. Một nơi tập trung những bí mật mà Septimus lo ngại có thể bị thất lạc hoặc đánh cắp.”



Vigor đi sâu vào chi tiết: “Đã có rất nhiều trận tấn công vào Alexandria từ thế kỷ thứ nhất đến thứ ba trước Công nguyên. Các trận tấn công ngày càng ác liệt. Ngay bản thân Julius Caesar cũng đốt cháy một phần thư viện Alexandria để đẩy lui các cuộc tấn công vào hải cảng. Những cuộc tấn công vẫn tiếp tục, dẫn đến việc phá hủy rồi tháo dỡ thư viện vào thế kỷ thứ bảy. Tôi có thể hiểu tại sao Septimus lại muốn bảo vệ một phần thư viện bằng cách giấu đi. Có thể ông ta đã giấu đi những cuốn sách quan trọng nhất ở đó.”



“Không phải chỉ có những cuộc tấn công bằng quân sự vào thành phố” Kat bổ sung thêm: “Một loạt dịch bệnh xảy ra. Những trận động đất đã phá hủy một phần đáng kể Alexandria. Một bộ phận của thành phố đã rơi xuống vịnh vào thế kỷ thứ tư, phá hủy khu vực hoàng gia Ptolemaic, trong đó có cả lâu đài Cleopatra và phần lớn khu nghĩa địa hoàng gia. Năm 1996, một nhà thám hiểm người Pháp, Franck Goddio đã phát hiện một phần của thành phố đã mất này ở hải cảng phía đông Alexandria. Một nhà khảo cổ khác, Honor Frost, tin rằng đây có thể là số phận của ngôi mộ Alexandria, rơi xuống một ngôi mộ trước.”



“Tôi không tin điều ấy,” Vigor nói: “Có nhiều tin đồn về vị trí của ngôi mộ, nhưng hầu hết những tư liệu lịch sử đã xác định ngôi mộ ở trung tâm của thành phố, cách xa bờ biển.”



“Cho đến khi, như tôi nói, Septimus Severus đóng nó lại” Kat tranh luận “Có thể ông ta đã di rời nó đi.”



Vigor chau mày “Cũng có thể, qua những thế kỷ sau, những kẻ chuyên săn lùng kho báu và các nhà khảo cổ đã cày xới khu vực Alexandria và vùng ngoại vi. Ngay cả ngày nay, cũng vẫn còn những cơn sốt giống như thời kỳ đi tìm vàng để tìm kiếm ngôi mộ đã mất này. Một vài năm trước đây, một tốp các nhà địa vật lý người Đức đã sử dụng thiết bị ra-đa thăm dò dưới lòng đất để chứng minh rằng tầng đất dưới Alexandria đầy rẫy những hang động và hầm ngầm. Có rất nhiều nơi có thể giấu được cả ngôi mộ. Phải mất hàng chục năm mới có thể tìm kiếm được tất cả.”



“Chúng ta không có được một thập kỷ,” Gray nói “Tôi không biết liệu chúng ta có được hai mươi tư giờ không.”



Mệt mỏi, Gray đi lại trong khoang ca-bin chật hẹp. Anh biết bọn Long Đình cũng có những thông tin tình báo y hệt như họ. Có lẽ chúng cũng không mất nhiều thời gian để nhận ra tảng đá ô-xýt sắt dưới ngôi mộ Thánh Peter có bản đồ với tên Alexandria được đánh dấu trên đó.



Anh nhìn vào ba người “Vậy chúng ta sẽ tìm đâu trước?”



“Tôi có thể có một gợi ý,” Rachel nói, sau một hồi im lặng. Cô đã liên tục gõ máy rồi lại tra cứu trên màn hình “Hoặc hai.”



Mọi người quay lại nhìn cô.



“Có một tài liệu tham khảo từ thế kỷ thứ IX, lời nói của Hoàng đế Constantinople, rằng và tôi xin trích dẫn, “Kho tàng quý báu, được cất giấu dưới ngọn hải đăng Pharo.” Thực tế, người trị vì Alexandria lúc đó đã tháo dỡ một nửa ngọn hải đăng để tìm kiếm.”



Gray nhận thấy Vigor rất ấn tượng với những lời của cô cháu gái. Anh nhớ lại vị linh mục đã quan tâm thế nào tới ngọn hải đăng. Rachel có thể đã từ ảnh hưởng của ông bác đi vào tìm kiếm dấu vết ở đó.



“Những kẻ khác cũng tiến hành tìm kiếm nhưng ngọn hải đăng đóng một vai trò chiến lược cho hải cảng.”



Vigor gật đầu, cặp mắt của ông sáng lên với sự thích thú “Có nơi nào để giấu một thứ mà bạn không muốn người ta đào bới lên hơn là một kiến trúc quá quan trọng không thể dỡ bỏ được.”



“Vậy là tất cả kết thúc vào ngày 8 tháng 8 năm 1303, một trận động đất lớn đã rung chuyển cả phía đông Địa Trung Hải. Ngọn hải đăng bị phá hủy, lật nhào ngay trên hải cảng mà những di tích Ptolemaic đổ xuống.”



“Điều gì xảy ra đối với vị trí ban đầu của nó?” Gray hỏi.



“Nó thay đổi theo các thế kỷ. Nhưng vào thế kỷ XV, một ông vua Mamluk đã xây dựng một pháo đài trên bán đảo. Nó vẫn còn đến ngày nay, Pháo đài Qait Bey. Một vài công trình của nó bao gồm những khối đá nguyên bản dùng để xây ngọn hải đăng.”



“Và nếu như kho tàng không bao giờ được tìm thấy,” Vigor tiếp tục “Thì nó phải vẫn còn ở đó… dưới pháo đài.”



“Nếu như nó tồn tại…” Gray thận trọng nói.



“Vậy chúng ta sẽ làm gì? Gõ cửa và hỏi họ xem liệu có được phép đào dưới pháo đài của họ chăng?”



Kat đưa ra một giải pháp thực tiễn hơn “Chúng ta liên lạc với vệ tinh viễn thám. Họ có thể liên lạc với các vệ tinh có hệ thống ra-đa xuyên lòng đất. Để cho chúng bay qua khu vực này. Chúng ta có thể tìm kiếm những hang động hoặc hầm ngầm giống như nhà địa vật lý Đức đã tiến hành. Điều đó có thể giúp cho công việc tìm kiếm của chúng ta.”



Gray gật đầu. Đó không phải là một ý kiến tồi. Nhưng sẽ mất thời gian. Anh đã tự mình kiểm tra rồi. Phải mất tám tiếng nữa mới tới lượt tiếp của vệ tinh trinh sát.
“Có cái gì ở dưới.” Gray nói.



Mọi người bắt đầu khởi động ngay lập tức, vớ lấy bình khí mới.



Monk thức giấc rồi ngồi dậy. “Cái gì vậy?” Anh nói giọng mỏi mệt.



“Trông như anh lại tiếp tục nhiệm vụ canh gác nữa rồi.” Gray nói. “Trừ phi anh muốn xuống nhúng người.”



Monk càu nhàu không nói gì.



Khi chiếc thuyền đã ổn định và lá cờ màu da cam được giơ lên, bốn thợ lặn lúc nãy nhảy xuống nước.



Rachel xả phao và bắt đầu lặn. Giọng của Gray đến với cô qua máy bộ đàm. “Hãy để ý la bàn đeo ở cổ tay. Zero là bất thường.”



Rachel theo dõi la bàn khi cô lặn xuống. Nước ở đây khá nóng. Chưa đầy mười mét. Cô xuống đến nền cát rất nhanh. Những người khác cũng xuống nhanh chỗ cô đứng, trông như những chú chim.



“Không có gì ở đây.” Kat nói.



Đáy biển là một chỗ bằng phẳng toàn cát.



Rachel nhìn chăm chú vào la bàn. Cô nhao người ra rồi lại quay lại. “Điều bất thường ở ngay đây.”



Gray cúi xuống đáy biển rồi đưa tay rà một lượt. “Cô ta nói đúng.”



Anh vòng tay lấy con dao đeo bên tay kia rồi bắt đầu đào vào nền cát mềm mại. Mũi dao đâm sâu xuống, bùn cát bắn tung lên làm hạn chế tầm nhìn.



Đến nhát thứ bảy, mũi dao như khựng lại không thể đi sâu quá hơn vài centimét.



“Có cái gì đó.” Gray nói.



Anh rút lưỡi dao rồi bắt đầu đào vào cát. Cảnh bỗng tối hẳn. Rachel không nhìn thấy gì nữa.



Cô nghe thấy tiếng thở gấp từ Gray.



Rachel tiến đến gần hơn, Gray lùi lại. Chỗ cát bị tản ra rồi lại đọng lại.



Nhô lên trên cát là một pho tượng bán thân của một người đàn ông.



“Tôi nghĩ rằng đấy là cực nam châm.” Kat nói, nghiên cứu chất đá của pho tượng. Cô cũng chà xát la bàn của mình bên tay cô lên pho tượng. Cái kim lập tức nhảy. “Ô-xýt sắt có từ tính.”



Rachel tiến đến gần hơn, nhìn vào khuôn mặt. Không có sự nhầm lẫn nào về sự giống nhau của các đường nét. Cô đã nhìn những khuôn mặt như vậy vài ba lần hôm nay rồi.



Gray cũng nhận ra điều đó.



“Lại một con nhân sư khác.”



***



12 giờ 14 phút



Gray dành mười phút để cạo sạch vai và phía trên của pho tượng, thò tay vào hình hài sư tử ở dưới. Không còn nghi ngờ gì nữa đây là một trong các con nhân sư giống như những con khác nằm la liệt trên biển.



“Giấu trong số những con khác.” Vigor nói. “Tôi đoán điều ấy khi trả lời câu hỏi khi nào các nhà giả kim giấu vật báu của họ ở đây.”



“Sau khi ngọn hải đăng bị sụp đổ.” Gray nói.



“Chính xác là vậy.”



Họ bu quanh con nhân sư có nhiễm từ, chờ cho đám bụi và cát ổn định.



Vigor tiếp tục. “Hội các vị Tiên tri cổ xưa chắc phải biết vị trí của ngôi mộ Alexander sau khi Septimus Severus giấu nó vào thế kỷ thứ ba. Họ giữ cho nó không bị đụng chạm đến, giữ được những bản thảo quý báu nhất của cái thư viện đã mất. Có lẽ vào trận động đất năm 1303 không chỉ làm đổ ngọn hải đăng mà còn làm ngôi mộ phát lộ. Họ nắm lấy cơ hội này để lại giấu tiếp, tận dụng thời gian hỗn loạn sau vụ động đất để chôn vùi dấu vết tiếp theo để những thế kỷ sau lại chôn vùi tiếp nữa.”



“Nếu như ông đúng,” Gray nói, “sẽ chỉ ra ngày tháng khi những dấu vết này được chôn. Hãy nhớ là chúng ta đã từng dự đoán rằng những dấu vết được đặt xung quanh thế kỷ XIII. Chúng ta chỉ cách vài năm. 1303. Thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XIV.”



“Hừm…” Vigor trôi đến gần hơn pho tượng.



“Cái gì?”



“Nó làm tôi phân vân. Cũng trong thập kỷ đó, giáo hoàng thực sự đã bị đánh đuổi ra khỏi thành Rome và di tản sang nước Pháp. Phái chống giáo hoàng đã cai trị Rome cho tới thế kỷ sau.”



“Vậy ư?”



“Cũng tương tự như vậy, hài cốt của các vị Tiên tri bị di rời từ Italy sang nước Đức vào năm 1162, một thời gian khác nữa khi vị giáo hoàng thực sự bị đánh chạy khỏi Rome và kẻ chống lại giáo hoàng ngồi trên ngai vàng.” Gray theo sau luồng suy nghĩ này. “Như vậy là những nhà giả kim đã cất giấu kho báu mỗi khi giáo hoàng bị đe dọa hiểm nguy.”



“Có vẻ là như vậy. Điều đó cắt nghĩa là hiệp hội những nhà thông thái đã có sự ràng buộc với giáo hội. Có thể, các nhà giả kim đã gia nhập Thiên chúa giáo lại mở cuộc tìm kiếm những kiến thức bí hiểm, những người Thiên chúa giáo Thomas.”



“Và hội bí mật này sát nhập với nhà thờ cơ đốc giáo?”



Vigor gật đầu. “Khi nhà thờ chính thống bị đặt trước sự đe dọa, thì nhà thờ bí mật cũng vậy. Vì vậy họ tìm cách bảo vệ. Đầu tiên là di chuyển chỗ di cốt đến nơi an toàn ở Đức vào thế kỷ thứ XII. Rồi sau những năm vật lộn ở hải ngoại, họ đã giấu phần tinh túy nhất trong số kiến thức của họ.”



“Ngay cả nếu đó là thực sự, cái đấy sẽ giúp gì cho việc chúng ta tìm mộ Alexander?” Kat hỏi.



“Giống như những dấu tích dẫn đến mộ Thánh Peter đã bị chôn vùi trong những câu chuyện của đạo Cơ đốc giáo. Những dấu vết ở đây có thể liên quan đến những truyền thuyết về Alexander, chuyện thần thoại Hy Lạp.” Vigor lấy tay xoa lên mặt tượng.



“Tại sao khác lại đánh dấu lối vào bằng con nhân sư?”



“Những bậc thầy về câu đố của người Hy Lạp.” Gray lẩm bẩm.



“Và con quỷ này sẽ giết anh ngay lập tức nếu không trả lời đúng các câu đố đó.” Vigor nhắc lại. “Có lẽ việc lựa chọn hình tượng này cũng là một lời cảnh báo.”



Gray nghiên cứu con nhân sư khi cát đã trôi đi, cũng như vẻ bí hiểm của nó. “Vậy thì chúng ta hãy giải câu đố này.”



***



12 giờ 32 phút



Xuống Alexandria lần cuối cùng.



Chiếc máy bay tư nhân Gulfstrem IV được phép mặt đất cho hạ cánh. Seichan lắng nghe câu chuyện của phi hành đoàn qua cửa khoang lái mở toang. Cô ngồi ghế ngay sát cửa. Ánh sáng mặt trời xuyên qua cửa sổ chỗ cô ngồi.



Một thân hình to lớn bước đến cô từ phía bên trái.



Raoul.



Cô tiếp tục nhìn ra ngoài cửa sổ khi chiếc máy bay lượn một vòng trên vùng nước biển màu xanh sẫm của Địa Trung Hải chuẩn bị hạ cánh xuống đường băng.



“Thế cơ sở của cô dưới mặt đất nói điều gì?” Raoul hỏi, nhấn từng chữ một.



Có thể hắn để ý thấy cô đã sử dụng máy điện thoại của máy bay. Cô mân mê hình con rồng bằng bạc trên sợi dây chuyền. “Những người kia vẫn ở dưới nước. Nếu như ông may mắn, có thể họ sẽ giải được điều bí mật đó cho ông.”



“Ta không cần họ làm điều ấy.” Raoul quay lại trở về chỗ đồng bọn, một tốp chừng mười sáu tên, trong đó có cả những kẻ bậc thầy của Long Đình.



Seichan đã từng gặp nhà học giả đầy tài năng của Vatican, tiến sĩ Alberto Menardi, một người đàn ông cao ráo, tóc bạch kim với nước da sần sùi, đôi môi dày, cặp mắt ti hí. Gã ngồi phía sau máy bay, mũi bị sưng vù. Cô đã có toàn bộ hồ sơ về gã. Quan hệ của gã với một tổ chức tội phạm nào đó của Sisin có vẻ rất sâu. Hình như ngay cả Vatican cũng không thể ngăn không cho những hạt cỏ dại mọc trên đất của mình. Nhưng cô cũng không thể bỏ qua bộ óc sắc sảo của người đàn ông này. Gã có chỉ số IQ cao hơn Einstein đến ba điểm.



Chính tiến sĩ Alberto Menardi là kẻ từ mười lăm năm trước đây đã phát hiện trong thư viện của Long Đình những văn bản của phái Ngộ đạo về những hiệu ứng của từ trường khi giải thoát năng lượng của những kim loại siêu dẫn đó. Gã đã quan sát công trình thí nghiệm tại Lausanne Thụy Sĩ và thử phản ứng trên súc vật, rau cỏ và khoáng vật. Và ai có thể nhớ những du khách người Thụy Sĩ đơn độc đeo ba lô trên núi? Những thí nghiệm cuối cùng cũng có thể làm cho các nhà khoa học Quốc xã Đức sởn gai ốc.



Nhưng người đàn ông này lại có một thú vui rất bẩn thỉu với các cô gái trẻ.



Không phải vì tình dục.



Vì thể thao.



Cô đã nhìn thấy một vài tấm ảnh mà cô không hề muốn nhìn. Nếu cô không nhận được lệnh của Hiệp hội phải thủ tiêu người đàn ông này thì tự cô cũng sẽ làm việc đó.



Chiếc máy bay bắt đầu hạ cánh.



Ở một nơi nào đó phía dưới, toán Sigma đang miệt mài làm việc.



Họ không phải là mối đe dọa.



Quá dễ dàng như bắt cá trong thùng.