Địa Đồ Di Cốt

Chương 7 : Tàu tốc hành đi Rome

Ngày đăng: 16:31 19/04/20


Ngày 25 tháng 7



12 giờ 38 phút



Milan, Italy.



Bước vào trong phòng chứa đồ, người linh mục liền đóng cửa lại. Căn phòng này vốn dùng để các linh mục và người phụ lễ thay quần áo lễ.



Rachel nghe khóa cửa kêu đánh tách một tiếng phía sau.



Vừa quay lại, cô đã thấy một khẩu súng giơ trước ngực. Trên tay người linh mục. Đôi mắt của y tàn nhẫn, lạnh tanh như đá cẩm thạch mài nhẵn.



“Không được động đậy” Y nói, giọng chắc nịch.



Rachel lui lại một bước. Vigor chậm rãi giơ tay lên.



Hai bên tường là những bộ quần áo linh mục để sử dụng trong các buổi hành lễ. Một chiếc bàn đựng dãy cốc bạc để uống rượu thánh, sắp xếp ngay ngắn cho các buổi lễ ban thánh thể. Một cây thánh giá lớn mạ bạc gắn trên một cái gậy sắt vẫn dùng trong các buổi rước lễ dựa vào góc phòng.



Cánh cửa đối diện căn phòng bỗng bật mở.



Một bóng người trông như con trâu mộng và có vẻ quen quen xuất hiện, đứng chật cả cửa. Đó chính là gã đàn ông đã tấn công cô tại Cologne. Hắn cầm một con dao dài trong tay, lưỡi dao đẫm máu. Hắn bước vào phòng rồi giật lấy cái khăn choàng lễ treo trong tủ để lau lưỡi dao.



Rachel cảm thấy Vigor đang nháy mắt với cô.



Máu. Những vị linh mục biến mất. Ôi, lạy Chúa…



Gã đàn ông cao khều không còn mặc áo choàng tu sĩ nữa mà đang mặc quần áo thường ngày bằng kaki màu than, và cái áo sơmi đen, khoác bên ngoài là bộ vét đen sẫm. Gã để khẩu súng trong bao súng đeo trên vai và tai hắn đang nghe bộ đàm, còn chiếc micro ngay dưới cằm.



“Như vậy là cả hai đều sống sót sau vụ Cologne”. Hắn nói, cặp mắt nhìn Rachel một lượt như thể đang định giá một con bò có giá tại một phiên chợ quê. “Thật may mắn. Nhưng có lẽ chúng ta phải làm quen với nhau đã”.



Hắn nói vào chiếc micro ra lệnh: “Hãy dọn dẹp nhà thờ”.



Phía sau, Rachel nghe tiếng các cánh cửa dẫn vào giáo đường đồng loạt mở toang. Gray và đồng đội của anh chắc sẽ bị bất ngờ. Cô chờ đợi một loạt tiểu liên hay một trái lựu đạn. Nhưng tất cả những gì nghe thấy chỉ là tiếng ủng lộp bộp trên sàn đá cẩm thạch. Nhà thờ vẫn im lặng.



Hình như những kẻ đang giữ cô cũng nhận thấy điều đó.



“Báo cáo đi” Gã gọi vào bộ đàm.



Rachel không nghe tiếng trả lời, nhưng nhìn khuôn mặt tối sầm của gã cô đoán là có chuyện.



Gã lao qua Rachel và Vigor.



“Trông chừng tụi nó” Tên cao kều quát lên với gã linh mục giả. Một bóng người thứ hai tiến đến chỗ gã. Người phụ nữ lai châu Á bước đi cùng với gã, với khẩu Sig Sauer nặng trĩu trên tay.



“Chẳng có ai ở đây cả” Tên kều nói.



Rachel nhìn thấy những kẻ cầm súng khác lục soát giáo đường và các đền thờ nhỏ bên cạnh tường.



“Canh gác tất cả các lối ra.”



“Vâng, thưa ngài”.



“Tất cả mọi lúc.”



“Vâng, thưa ngài”.



Cặp mắt của gã kều dán chặt vào người đàn bà châu Á.



Cô ta nhún vai: “Có thể họ tìm thấy một cái cửa sổ mở”.



Miệng vẫn làu bàu, gã nhìn toàn bộ giáo đường một lượt rồi quay ngoắt lại: “Tiếp tục lục soát. Cử ba người ra bên ngoài xem, chắc chúng chưa đi xa đâu”.



Khi gã quay lại, Rachel hành động.



Tiến đến phía sau, cô giật cái gậy sắt có gắn cây thánh giá rồi quật mạnh vào thái dương của gã. Hắn ngã ngửa, đập vào người tên linh mục giả. Cô thu cái gậy lại dưới cùi chỏ rồi quật trở lại vào mặt tên đứng sau.



Súng của gã nhả đạn nhưng viên đạn bắn lên trời khi gã cố chạy thoát ra cửa.



Rachel đuổi theo, lao qua cửa đến một hành lang hẹp. Cô sập mạnh cửa rồi dùng cái gậy sắt chèn ngáng luôn vào hành lang. Đằng sau cô, bác Vigor dùng gót chân nện mạnh vào cánh tay của tên bị ngã. Có tiếng xương gẫy rắc, rồi ông đá thẳng vào mặt y, đầu y đập mạnh vào sàn đá và người mềm nhũn.



Rachel cúi xuống nhặt lấy khẩu súng lục của y.



Vẫn ngồi xổm, cô dò dẫm tìm đường trong gian phòng tối om không có cửa sổ. Không thấy tên nào cả. Lực lượng bổ sung chắc đã được bố trí để phục kích Gray và nhóm của anh. Có tiếng đập mạnh vào cánh cửa. Con bò mộng đang tìm cách phá cửa.



Cô nằm xoài xuống sàn tìm kiếm phía dưới khe cửa. Cô nhìn thấy vệt sáng và bóng người. Cô chĩa khẩu súng vào chỗ đó rồi bóp cò.



Viên đạn trúng vào sàn đá nhưng cô nghe thấy tiếng thét ngạc nhiên của gã nọ. Phát súng chắc sẽ cầm chân y một lúc.



Cô ngồi dậy. Bác Vigor đã bước qua sảnh.



“Bác nghe như có tiếng người rên”. Ông thì thào “Quay lại đây”.



“Chúng ta không còn thời gian nữa”.



Phớt lờ, bác Vigor tiến vào sâu hơn. Rachel bước theo. Không thông thạo địa hình, mỗi bước đi lại càng khó khăn hơn trước. Họ tới một cánh cửa bị mở toang, Rachel nghe thấy có tiếng rên rỉ bên trong.



Cô lấy vai ẩy khẽ, súng lăm lăm trong tay.



Căn phòng vốn vẫn là phòng ăn, nay bỗng biến thành lò sát sinh. Một linh mục nằm úp xấp trong vũng máu trên nền. Sau gáy của ông là một mớ lầy nhầy óc, xương và tóc. Một thân hình mặc áo choàng đen nữa nằm sóng xoài trên một trong những cái bàn ăn, bị trói chặt vào chân bàn. Một linh mục già, áo choàng của ông bị xé rách xuống đến thắt lưng. Ngực của ông là một vũng máu, đầu ông bị xẻo cả hai tai. Có thể ngửi thấy mùi thịt cháy khét.



Tra tấn!



Đến chết!



Một tiếng khóc tức tưởi ở phía bên trái. Trên sàn nhà bị trói cả chân lẫn tay là một người đàn ông trẻ, bị tụt đến tận quần đùi, mồm bị bịt giẻ. Mắt anh ta đầy vết tím bầm, máu vẫn rỏ tong tong trên sống mũi. Nhìn bộ dạng trần trụi của anh ta, rõ ràng bộ quần áo linh mục của anh ta đã bị tên giết người kia vừa lột ra để mặc vào.



Vigor đi xung quanh bàn. Khi người đàn ông tội nghiệp nhìn thấy ông, anh ta giãy giụa, cặp mắt dại đi, thở phò phò sau miếng giẻ bịt miệng.



Rachel lui lại.



“Ổn rồi, không sao đâu” Vigor an ủi anh ta.



Người đàn ông nhìn chăm chú vào cái cổ áo linh mục của Vigor. Anh ta thôi không vùng vẫy nữa nhưng vẫn khóc nức nở. Vigor lấy tay giật mảnh vải bịt miệng. Người đàn ông lắc đầu nhổ ra, nước mắt chảy trên gò má.



“Molti… Grazie”, anh ta nói, giọng vẫn sốc.



Vigor dùng con dao cắt dây nhựa trói anh ta.



Trong khi ông bác đang bận rộn, Rachel khóa cửa dẫn vào phòng ăn rồi lấy một chiếc ghế chặn lại. Không có cửa sổ, chỉ có một cái cửa dẫn sâu hơn vào nhà của mục sư. Cô tiếp tục chĩa súng vào hướng đó rồi bước tới một máy điện thoại trên tường. Không có tín hiệu, đường dây điện thoại đã bị cắt.



Cô lấy ra chiếc máy di động của Gray rồi gọi vào số 112, con số báo động thống nhất của toàn EU. Sau khi nối được máy, cô xưng mình là trung úy cảnh sát mặc dù không nói tên, cô gọi xe y tế cấp cứu, quân cảnh và quân đội đến ứng cứu.



Sau khi đã báo động, cô bỏ chiếc máy vào túi.



Gặp số đối thủ đông hơn, đó là tất cả những gì cô có thể làm được. Cho cô và những người khác.



***



12 giờ 45 phút.



Những bước chân tiến gần đến chỗ Gray đang nấp. Anh cố giữ thật im, nín thở. Bước chân dừng lại ngay bên cạnh. Anh dỏng tai nghe.



Một người đàn ông nói, một giọng quen thuộc, cáu kỉnh. Đó là tên cầm đầu số linh mục: “Nhà cầm quyền Milan đã được báo động”.



Không có tiếng trả lời, nhưng Gray chắc chắn có hai người ở đó.



“Seichan?” Người đàn ông nói: “Cô có nghe tôi nói không?”.



Một giọng mệt mỏi trả lời, cũng nhận ra được Long nương, nhưng bây giờ cô ta đã có tên Seichan.


Gray chau mày. Liệu đó có phải là thực không?



“Cũng có những văn bản trong Kaballah của người Do thái nói trực tiếp về một chất bột màu trắng của vàng gọi đó là phép mầu, một phép thuật thì cũng có thể sử dụng vào mục đích tốt hay xấu.”



“Vậy điều này trở thành cái gì?“ Gray hỏi.



“Theo hầu hết các nguồn Do Thái, nó đã bị mất khi đền thờ Solomon bị Nebuchadnezzar phá hủy vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên.”



“Sau đó nó đi đâu?”



“Để đi tìm những vết tích của nó, chúng ta phải bỏ qua hai thế kỷ để tới một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, người cũng dành nhiều thời gian trong cuộc đời ở Babylon nghiên cứu với các nhà khoa học và những người giác ngộ về thượng đế linh - Alexndre Đại đế.” Vigor dừng lại như thể nhấn mạnh.



Gray ngồi dậy thẳng hơn.



“Vị vua của Máx Xê Đoan?”



“Anexandre chinh phục Ai Cập năm 332 trước Công nguyên cùng một phần lãnh thổ rộng lớn của thế giới. Con người này luôn thích thú những điều huyền bí. Trong suốt các cuộc chinh phục, ông ta đã gửi các món quà khoa học của Aristot đi khắp các nơi và cũng thu thập những bản thảo liên quan đến những kiến thức và pháp thuật bí mật của Ai Cập. Người kế vị của ông ta, PtolemyI, đã tập hợp những thứ đó vào thư viện Alexandre, sau khi ông ta chết. Có một văn bản của Alexander kể một câu chuyện về một vật tên là Hòn đá Thiên đường, mô tả là nó có những phép mầu. Khi ở thể rắn nó có thể nặng hơn vàng, nhưng khi bị nghiền thành bột nó lại nhẹ hơn bông và có thể nổi trên mặt nước.”



“Năng lực bay bổng siêu trọng”. Kat ngắt lời.



Gray quay lại nhìn cô.



“Tính năng của chất liệu có khả năng siêu dẫn đó được nói khá kỹ. Chất siêu dẫn có thể nổi trong một từ trường mạnh. Ngay cả chất bột ở trạng thái -m cũng chứng minh khả năng bay bổng siêu trọng. Năm 1984, các thí nghiệm ở Arizona và Texas cho thấy việc làm nguội nhanh chất bột đơn nguyên có thể nâng trọng lượng đã được thử nghiệm của nó bốn lần. Nhưng khi bị nung nóng lại, trọng lượng của nó sẽ dưới zero.”



“Thế nào là dưới zero?”



Cái chảo nào nặng hơn nếu không có chất đó ở trên, như thế cái chảo cũng nhẹ bỗng đi.



"Như vậy là đã phát hiện lại Hòn đá Thiên đường." Vigor tuyên bố.



Gray bắt đầu nhận ra sự thật. Một kiến thức bí mật đã truyền qua biết bao nhiêu thế hệ.



“Vậy con đường của chất bột này dẫn tiếp đến đâu?”



“Đến thời kỳ của Đức Chúa Jesu.” Vigor trả lời. “Trong kinh Tân ước, tiếp tục cũng có những gợi ý về loại vàng bí hiểm. Trong đoạn ở“Hãy cứu rỗi con người vượt qua vì người đã được ban cho Manna, hòn đá màu trắng loại tinh khiết nhất.” Cũng cuốn này đã mô tả những ngôi nhà ở Jerusalem mới được xây dựng bằng vàng tinh khiết đến nỗi trông như thủy tinh trong suốt.”



Gray nhớ lại Vigor đã lẩm bẩm những câu đó, khi thứ bột thủy tinh rắn lại tại nền nhà thờ Cologne.



“Hãy cho tôi biết,“ Vigor nói tiếp, ”Khi nào vàng trông giống như thủy tinh? Nó không có nghĩa gì nếu như ta xem xét khả năng vàng ở trạng thái -m… loại tinh khiết nhất trong số các loại vàng mô tả trong Kinh Thánh.”



Vigor chỉ lên bàn. ”Điều gì đưa chúng ta trở lại các vị Tiên tri trong Kinh Thánh. Đến một câu chuyện do Marco Polo kể từ Ba Tư. Đó là câu chuyện các vị Tiên tri nhận quà từ Chúa Hài đồng, có thể là chuyện ngụ ngôn, nhưng tôi cho rằng nó quan trọng. Đức Chúa cho ba vị Tiên tri một viên đá trắng vô tri vô giác, viên đá thần. Câu chuyện dẫn đến điều diễn giải là nó giống như một lời kêu gọi các vị Tiên tri hãy trung thành với đức tin của họ. Trong chuyện hồi hương của họ, hòn đá bùng cháy thành ngọn lửa không thể dập tắt được, một ngọn lửa vĩnh cửu, điều đó thường được mô tả như một thời đại khai sáng mới.”



Vigor có thể nhận thấy nét bối rối của Gray. Ông tiếp tục “Trong Mesopotamia khi câu chuyện xuất hiện, từ đá lửa mạnh được gọi là Shemanna. Hay gọi tắt là đá lửa… Manna?”



Vigor ngồi tựa ra sau khoanh tay lại.



Gray chậm rãi gật đầu.



“Như vậy chúng ta đã đi một vòng tròn. Trở lại với Manna và các vị Tiên tri trong Kinh thánh.”



“Trở lại với thời kỳ mà những di cốt này được tạo ra.” Vigor nói gật đầu về phía cái bàn.



“Và nó dừng ở đó?“ Gray hỏi.



Vigor lắc đầu. “Tôi cần phải tìm hiểu kỹ hơn. Nhưng tôi tin là nó tiếp tục quá ngưỡng đó. Tôi nghĩ điều mình vừa mô tả không phải là sự phát hiện trở lại chất bột này là đơn độc mà là một chuỗi liên tiếp nghiên cứu do một tổ chức bí mật tiến hành vẫn đang thuần khiết hóa quy trình ấy suốt bao đời nay. Tôi nghĩ cộng đồng khoa học chính thống chỉ mới bắt đầu phát hiện lại nó.”



Gray quay lại Kat, chuyên gia tìm hiểu khoa học trên mạng của họ.



“Ngài linh mục nói đúng đấy. Có những sự phát hiện không thể tin được về trạng thái -m của các chất siêu dẫn. Từ siêu giảm trọng lượng đến khả năng chuyển dịch liên thông. Nhưng những áp dụng thực tiễn hơn đang được người ta thăm dò hiện nay. Cis-Platium và Carbono-Platium đang được sử dụng để chữa bệnh ung thư tiền liệt tuyến và buồng trứng. Tôi hy vọng Monk với năng lực về pháp y sẽ đi vào chi tiết. Nhưng trong những năm gần đây còn có những phát hiện đáng quan tâm hơn.”



Gray ra hiệu cho cô tiếp tục.



“Vào tháng 8 năm 2004, Đại học Purdue đã báo cáo thành công trong việc sử dụng Rhodium để diệt Virus bằng ánh sáng từ bên trong cơ thể, ngay cả virus Tây Nile.”



“Ánh sáng?” Vigor hỏi, mắt như hẹp lại.



"Có một số bài viết về trạng thái -m của nguyên tử và ánh sáng. Từ việc làm cho DNA trở thành siêu dẫn… đến sóng ánh sáng, thông tin giữa các tế bào… đến khai thác năng lượng trường zero."



Cuối cùng Rachel cũng mở to đôi mắt. Cặp mắt cô thật sáng và linh lợi.



“Các nhà khoa học nói nhiều về việc nâng cao khả năng nhận biết, siêu trọng lượng, chữa bệnh kỳ lạ, chống lão hóa… Nó giống như một danh mục phép mầu trong Kinh thánh. Nó làm tôi phân vân vì sao nhiều phép mầu đã xảy ra trước đây mà không phải là hiện nay. Vài thế kỷ vừa qua, chúng ta may mắn được nhìn hình ảnh của Đức Mẹ Mary đồng trinh trên một chiếc bánh ngô. Nhưng bây giờ, khoa học lại phát hiện lại những phép mầu lớn hơn. Và rất nhiều điều đã trở lại với chất bột trắng, một chất người xưa biết nhiều hơn hiện nay. Liệu những kiến thức bí mật đó có phải là nguồn gốc của hàng loạt phép mầu trong thời kỳ Kinh thánh?”



Gray suy nghĩ về điều này, bắt gặp cái nhìn của cô.



“Và nếu như các vị Tiên tri lại biết nhiều hơn chúng ta hiện nay,” anh nói. “Vậy những bằng hữu đã mất của các vị Tiên tri đã làm gì với kiến thức này và họ đã tinh chế nó đến mức độ nào?”



Rachel tiếp tục theo hướng đó.



“Có thể đấy là điều mà Long Đình theo đuổi! Có thể họ đã tìm ra được một dấu vết gì đó, một điều gì đó liên quan đến di cốt có thể đưa chúng tới một thứ sản phẩm được tinh chế cuối cùng. Một cái thung lũng cuối cùng đã đưọc bọn chúng tìm ra...”



“Và trên đường, bọn Long Đình đã học được thuật giết người như ở Cologne, một cách sử dụng chất bột ấy để giết người.” Anh nhớ lại lời ngài linh mục nói về thứ Kaballah của người Do Thái, một loại bột trắng có thể dùng cho việc tốt hay xấu.



Khuôn mặt của Rachel dịu đi.



"Nếu chúng có thể giành được một công năng lớn hơn, tiếp cận được với khoảng không bên trong của những vị thông thái cổ đại, chúng có thể thay đổi thế giới, tái tạo lại theo hình ảnh bệnh hoạn của bọn chúng."



Gray nhìn chằm chặp vào những người khác. Kat dường như đang tính toán. Vigor chìm trong suy tư nhưng cũng khẽ gật đầu.



Cặp mắt của ngài hướng về họ.



Gray nhìn ông ta. "Ngài nghĩ thế nào?"



"Tôi nghĩ chúng ta phải ngăn chận chúng lại. Nhưng để làm điều đó, chúng ta phải tìm kiếm những dấu vết tới những nhà giả kim thời cổ đại. Điều này có nghĩa là theo vết chân của tụi Long Đình.”



***



6 giờ 5 phút



Seichan đeo vào mắt đôi kính mát gọng bạc nhãn hiệu Versace.



Khi ở Roma…



Cô bước xuống quảng trường từ chiếc xe buýt tốc hành. Cô mặc bộ áo mùa hè màu trắng, một đôi giày gót cao hiệu Harley dải giát bạc tương xướng với chiếc dây chuyền đeo trên cổ.



Chiếc xe buýt tiếp tục chạy. Đằng sau cô, xe cộ làm tắc nghẽn đường, tiếng còi xe theo dòng xe hướng về Via della Concilliazone. Nóng nực và mùi xăng làm cô thật khó chịu. Cô hướng về phía Tây, dọc theo con đường dẫn đến nhà thờ St. Peter, đang vươn cao trong ánh nắng chói chang. Đỉnh nhà thờ sáng lấp lánh như dát toàn bằng vàng, một kiệt tác của chính danh họa Michelangelo.



Chẳng chút gì ấn tượng, Seichan quay lưng về phía Vatican.



Đó không phải là điểm đến của cô.



Trước mặt cô là một kiến trúc tầm cỡ ngang với nhà thờ St Peter có hình như một cái trống khổng lồ, một lâu đài nhìn xuống sông Tiber, lâu đài Sant Angelo. Trên nóc là một bức tượng đồng khổng lồ của Archangel Michael tay giơ cao một thanh kiếm. Bức tượng chói lòa trong nắng. Cấu trúc bằng đá ở phía dưới giống như một dòng nước mắt màu đen.



Thật hài hòa, Seichan nghĩ.



Nơi này đã được xây dựng từ thế kỷ thứ II như lăng của Hoàng đế Hadrian, nhưng sau đó một thời gian ngắn đã bị Giáo hội chiếm. Tuy nhiên, lâu đài vẫn có một lịch sử phát triển thật huy hoàng. Dưới sự quản lý của Vatican, nó được sử dụng như một pháo đài, một nhà tù, một thư viện thậm chí một cái nhà thổ. Nó cũng là địa điểm thường dùng làm nơi hẹn hò bí mật của vài vị Giáo hoàng đầy tai tiếng, những người đã giam giữ ái thiếp và người tình của họ trong các bức tường lâu đài.



Seichan cảm thấy thật buồn cười khi cô chọn chỗ này cho cuộc gặp. Cô đi ngang qua khu vườn rồi đi ngang qua những bức tường dày tới hai mươi feet để vào tầng một. Bên trong tối om và mát mẻ. Vào giờ này trong ngày, các du khách đã ra về. Cô bước lên những bậc thang rộng rãi kiểu La Mã. Ra ngoài cầu thang chính của lâu đài trải rộng ra thành vô vàn các phòng và sảnh lớn. Nhiều du khách đã bị lạc.



Nhưng Seichan chỉ đi lên tầng giữa tới một tiệm ăn phía ngoài nhìn xuống sông Tiber. Cô sẽ gặp đối tác ở đây. Sau trận đánh bom vừa qua, đã thật sự mạo hiểm nếu tiến hành các cuộc gặp ngay trong Vatican. Vì vậy, đối tác của cô sẽ đi xuống Pasetto del Borgo, một con đường được ngụy trang dưới một cái máng nước cổ nối liền lâu đài Apostolic đến lâu đài này. Lối đi bí mật này đã được xây dựng từ thế kỷ XIII như một đường thoát hiểm khẩn cấp cho Giáo hoàng… Nhưng qua bao thế kỷ thường nó chỉ được sử dụng vào các vụ hẹn hò tình ái.



Nhưng hôm nay, không hề có chuyện lãng mạn trong cuộc gặp này.



Seichan bước khỏi cái thang rồi đi theo hàng chỉ dẫn đến quán cà phê ngoài sảnh. Cô kiểm tra lại đồng hồ. Cô đến sớm mười phút. Tốt thôi. Cô còn một cú điện thoại phải gọi.



Cô rút điện thoại di động ra, ấn vào một nút hình tượng rồi gõ vào phím bấm nhanh. Một con số riêng không có đăng ký. Cô tựa một bên hông, máy áp vào tai chờ đường liên lạc quốc tế được nối.



Đường dây đã nói và một giọng rất chuyên nghiệp trả lời.



"Chào buổi chiều, bạn đã nối với Trung tâm Sigma."