Eragon 4 (Inheritance) - Di Sản Thừa Kế
Chương 58 : Eragon càu nhàu
Ngày đăng: 13:16 19/04/20
Họ đi tiếp, chờ đợi mỗi bước tiếp theo sẽ gặp bẫy. Nhưng cả đoạn đường còn lại trong tiền sảnh có vẻ không có chướng ngại nào hết, khi họ tới bên cánh cửa không trắc trở gì.
Eragon nhìn lên mảng vàng tỏa sáng. Dọc cánh cửa được chạm khắc hình cây sồi kích cỡ như thật, vòm lá uống thành hình vòng cung cùng với bộ rễ vẽ nên một vòng tròn quanh thân cây. Từ khoảng giữa thân cây mỗi bên mọc ra hai nhánh cây to đùng. Ở mảng phía trên bên trái chạm hình một đoàn quân tiên nhân cầm thương hành quân ra từ khu rừng rậm. Ở khoảng trên bên phải là con người đang xây lâu đài và rèn gươm. Ở phía dưới bên trái, Urgal – phần lớn là Kull – đốt phá làng mạc và giết người. Ở phía dưới bên phải, người lùn khai mỏ đầy khoáng thạch và vỉa quặng. Giữa thân và cành cây sồi, Eragon nhận thấy ma mèo và Ra’zac, còn có một loài vật nhỏ kì lạ mà nó không nhận ra. Cuộc chính giữa thân cây là một con rồng đang ngậm đuôi như thể cắn chính mình. Cánh cửa được chạm khắc tuyệt đẹp. Nếu ở tình cảnh khác, nó sẵn sàng bỏ cả ngày ra ngồi đây nghiên cứu chúng.
Ánh sáng chói lọi của cánh cổng làm nó dâng lên cảm giác khiếp đảm khi cân nhắc thứ gì phía bên kia. Nếu đó là Galbatorix, thì cuộc đời của họ sẽ thay đổi mãi mãi và không bao giờ như trước nữa – cả cho họ lẫn toàn bộ Alagaësia.
Anh chưa sẵn sàng, Eragon thì thào với Saphira.
Từ khi nào bọn mình sẵn sàng vậy? Cô nàng thè lưỡi đớp không khí. Nó có thể thấy cô nàng đề phòng rất căng thẳng. Galbatorix lẫn Shruikan đều phải bị tiêu diệt, và chúng mình là người duy nhất có thể làm chuyện đó.
Nếu chúng mình không thể thì sao?
Thì không thể thôi, cái gì phải đến sẽ đến.
Nó gật nhẹ đầu, hít sâu một hơi. Anh yêu em, Saphira.
Em cũng yêu anh, anh nhỏ.
Eragon bước lên. “Giờ sao?” Nó hỏi cố giấu sự khó thở. “Ta có nên gõ cửa không?”
“Đầu tiên, cứ xem nó có mở không đã,” Arya nói.
Họ dàn hàng sẵn sàng cho trận đấu. Rồi Arya, bên cạnh Elva, nắm lấy tay cầm cánh cửa bên phải và chuẩn bị kéo.
Ngay lúc đó, một cột ánh sáng lung linh quấn quanh Blödhgarm và mười tiên nhân bên cạnh ông. Eragon thét lên cảnh báo, Saphira rít lên như thể dẫm lên vật nhọn. Các tiên nhân không thể di chuyển trong cột sáng: kể cả mắt họ cũng có vẻ bất động ngay từ lúc phép thuật có tác dụng.
Có tiếng cạch nặng nề vang lên, cánh cửa từ tường bên trái mở ra, các tiên nhân trượt về phía đó như thể những bước tượng trên mặt băng.
Arya lao theo, vươn ngạnh thương ra cố chọc thủng bùa chú trói buộc các tiên nhân, nhưng cô không theo kịp họ.
“Letta!” Eragon la lên. Dừng lại! Pháp thuật đơn giản nhất nó nghĩ có thể giúp được. Nhưng bùa chú ếm lên các tiên nhân có vẻ quá mạnh để nó có thể phá, họ biến mất trong bóng tối, cánh cửa đóng sập lại phía sau.
Cảm giác chán nản dâng trong lòng Eragon. Không có các tiên nhân …
Arya đập mạnh cánh cửa bằng cán thanh Dauthdaert, cố tìm kẽ hở giữa cánh cửa và bức tường bằng ngọn thương – như đã làm với cổng ngoài – nhưng bức tường dường như đặc kín, bất động.
Cô quay lại, vẻ mặt lạnh lẽo điên tiết. Umaroth, cô yêu cầu. Tôi cần sự giúp đỡ của người để mở cửa.
Không, con rồng trắng đáp. Galbatorix chắc chắn giấu những người kia rất kĩ. Cố tìm họ chỉ lãng phí năng lượng và đặt chúng ta vào tình thế nguy hiểm hơn.
Arya nhíu mày giận giữ. Thế thì chúng ta lọt bẫy lão mất, Umaroth-tiền-bối. Lão muốn tách chúng ta ra cho yếu đi. Nếu tiếp tục đi mà không có họ, Galbatorix càng dễ đánh bại chúng ta hơn.
Phải rồi, nhóc con. Nhưng ngươi có nghĩ Kẻ Phản Đồ(nguyên văn: Egg-breaker)muốn chúng ta lần theo họ không? Hắn có thể muốn chúng ta quên mất lão ta trong lo lắng, giận dữ, mù quáng nhảy vào một cái bẫy khác.
Sao lão phải lắm chuyện như thế? Lão có thể bắt Eragon, Saphira, người và toàn bộ các Eldunarí hệt như đã tóm mấy người Blödhgarm kia mà, nhưng lão không làm thế.
Có lẽ hắn muốn chúng ta tự kiệt sức trước khi đối mặt hắn hoặc trước khi hắn đánh bại chúng ta.
Aray cúi đầu suy nghĩ, rồi khi ngẩng lên cơn thịnh nộ của cô tan đi – ít ra là bề ngoài – thay bằng vẻ cảnh giác cao độ bình thường. Vậy chúng ta nên làm gì, Ebrithil?
Chúng ta hy vọng Galbatorix sẽ không giết mấy người Blödhgarm, ít ra là ngay lập tức , và tiếp tục cho đến khi tìm thấy nhà vua.
Dù Arya chấp thuận, nhưng Eragon có thể thấy cô thực khó chịu. Nó không thể đổ lỗi cho cô được vì chính nó cũng thấy vậy.
“Sao em không cảm thấy cái bẫy?” Nó nhẹ giọng hỏi Elva. Nó nghĩ mình hiểu, những vẫn muốn nghe lý do từ cô bé.
“Vì nó không làm họ đau,” cô bé nói.
Nó gật nhẹ.
Arya lui về phía cánh cửa vàng, nắm lấy tay cầm bên trái. Elva cũng nắm lấy cán thanh Dauthdaert.
Arya nghiêng người kéo, rồi cánh cửa vĩ đại chầm chậm mở ra. Eragon dam chắc không con người nào đủ sức mở nó, kể cả với sức mạnh của Arya.
Khi cánh cửa chạm bức tường, Arya thả ra, cùng Elva bước theo Eragon phía trước Saphira.
Phía bên kia cổng tò vò là một căn phòng khổng lồ tối tăm. Eragon không dám chắc nó lớn cỡ nào, vì những bức tường mờ ẩn trong bóng tối xám xịt. Một hàng đèn-lồng-không-lửa đặt trên các cột sắt chạy dọc hai bên lối vào, thắp sáng mù mờ sàn nhà chạm trổ, trong khi ánh sáng mù mờ tỏa ra từ những tinh thể gắn trên trần nhà xa xa. Hai hàng đèn lồng dài chừng năm trăm thước tới gần cái bệ rộng, trên đó là ngai vàng. Một bóng dáng duy nhất ngồi đơn độc trong căn phòng, dưới vạt áo hắn là thanh gươm trần trắng dài, đang tỏa ánh sáng nhàn nhạt.
Eragon nuốt nước bọn, nắm chặt thanh Brisingr. Nó gãi nhẹ cằm Saphira bằng cạnh khiên, cô nàng táp lưỡi nhẹ đáp trả. Rồi không nói gì, cả bốn cùng tiến lên.
Khi họ tiến vào phòng, cánh cửa vào đóng sập lại phía sau. Eragon cũng đoán trước được, nhưng tiếng động vẫn làm nó giật mình. m thanh vang vọng nhạt dần nhường chỗ cho sự im lặng tỏa khắp căn phòng lớn, bóng dáng phía trên ngai cựa mình như thức giấc, rồi một giọng nói – thứ giọng Eragon chưa từng nghe: nó trầm và mãnh liệt, thấm đầy uy lực hơn cả Ajihad hay Oromis hay Hrothgar, kể cả tiếng nói của tiên nhân cũng trở nên chói tai khó nghe khi so với nó – vang lên từ phía xa căn phòng.
Giọng nói đó bảo, “À, ta đang chờ mọi người đây. Chào mừng tới tệ xá. Và nhất là cậu đấy, Eragon Khắc tinh của Tà thần, và cho ngươi, Saphira Vảy Sáng. Ta rất mong gặp các cậu. Nhưng ta cũng hân hạnh gặp cô nữa, Arya – ái nữ của Islanzadí, mà cũng là Khắc tinh của Tà thần phải không – cả cô bé nữa, Elva My Rạng (nguyên văn: she of the Shining Brow). Dĩ nhiên, cả Glaedr, Umaroth, Valdr, những người du hành vô hình nữa. Ta tưởng họ đã mất lâu rồi, nhưng giờ thật mừng vì ta đã lầm. Chào mừng tất cả mọi người! Chúng ta phải nói chuyện thật nhiều mới được.”
Trái tim của cuộc chiến
Cùng các binh sĩ trong tiểu đoàn, Roran chiến đấu từ trên tường thành Urû’baen xuống đường phố bên dưới. Họ ngừng một chút tập hợp, anh vừa hô, “Ra cổng!” vừa chĩa búa theo hướng đó.
Anh cùng vài dân làng Carvahall, có cả chú Horst và Delwin, dẫn đầu tấn công về phía lỗ thủng các tiên nhân tạo ra bằng phép thuật. Cung tên bay tán loạn trên đầu họ, nhưng không nhắm thẳng vào họ, anh cũng không nghe thấy ai trong nhóm bị trúng tên cả.
Họ đúng đầu vài tá binh lính trong khoảng ngõ hẹp giữa tường thành và những ngôi nhà đá. Một số ở lại chiến đấu để hầu hết tiếp tục chạy, nhưng kể cả họ cũng sớm rút vào những hẻm gần kề.
Lúc đầu cảm giác cuồng nhiệt được giết chóc và chiến thắng làm mờ mắt Roran. Nhưng rồi khi bọn lính họ gặp bỏ chạy liên tục, cảm giác lo lắng cuộn lên trong Roran, anh bắt đầu nhìn xung quanh đầy cảnh giác, tìm kiếm bất kì thứ gì trông lạ thường.
Có gì đó không ổn. Anh chắc chắn.
“Galbatorix không bỏ rơi chúng dễ vậy chứ”, anh lẩm bẩm.
“Gì thế?” Albriech đứng cạnh anh hỏi.
“Tôi nói, Galbatorix sẽ không bỏ rơi chúng như thế này đâu.” Ngoẹo đầu nhìn quanh, Roran hô lên với cả tiểu đoàn, “Đề cao cảnh giác nào! Tôi cuộc Galbatorix có thể còn nhiều thứ bất ngờ đấy. Chúng ta sẽ không để bị đánh bại mà không hiểu chuyện gì chứ, phải không?”
“Cây Búa Dũng Mãnh!” họ kêu gào đáp trả, vũ khí đặt sát khiên. Tất cả, trừ các tiên nhân. Đã thỏa mãn, anh bước nhanh tới kiểm tra các mái nhà.
Họ nhanh chóng tiến vào một con phố đầy sỏi đá dẫn thẳng đến nơi từng là cổng thành chính. Giờ nó chỉ còn là một cái hố rộng hàng trăm thước, với hàng đống xương vụn dưới đáy. Hàng đoàn chiến binh quân Varden và đồng minh tuôn qua khoảng trống: con người, người lùn, Urgal, tiên nhân và mèo ma lần đâu tiênsát cánh chiến đấu trong lịch sử.
Tên bắn ào ào như mưa lên quân đoàn đang tiến vào thành phố, nhưng phép thuật của các tiên nhân chặn đứng những mũi nhọn chết người trước khi đâm xuống. Nhưng binh lính của Galbatorix thì không được may mắn như vậy: chúc ngã gục tới tấp trước mũi tên của các cung thủ Varden, dù một số có vẻ được bảo vệ bởi pháp thuật. Roran đoán có lẽ đó là những kẻ được Galbatorix sủng ái.
Khi tiểu đoàn của anh nhập vào đoàn quân, Roran trông thấy Jörmundur cưỡi ngựa trong dòng thác chiến binh. Anh hô to chào, ông đáp lại rồi hô lên, “Khi tới đài phun nước” – ông chĩa gươm vào công trình lớn tráng lệ trong khoảng sân phía trước họ mấy trăm bộ - “dẫn lính của cậu về hướng phải. Dọn dẹp mạn Nam thành phố, rồi tập hợp với chúng tôi ở tòa thành.”
Roran gật mạnh đầu để Jörmundur thấy. “Vâng thưa Ngài!”
Giờ anh cảm thấy an toàn hơn khi có sự hỗ trợ của những chiến binh, nhưng cảm giác lo lắng vẫn tiếp tục. Bọn chúng đâu rồi? Anh băn khoăn, nhìn qua những con phố trống trải. Galbatorix đáng ra phải có hàng đoàn quân tại Urû’baen, nhưng Roran vẫn chưa thấy bóng dáng của chúng đâu cả. Chỉ có một số lính nháo loạn trên tường thành thật, và chúng còn bỏ chạy nhanh hơn bình thường nữa.
Hắn đang dụ chúng ta, Roran đột nhiên nhận ra. Tất cả được tạo ra để gạt chúng ta. Cố gọi Jörmundur lần nữa, anh la lên, “Có gì đó không đúng! Binh lính ở đâu rồi?”
Jörmundur tư lự, quay sang vua Orrin và Nữ hoàng Islanzadí, đang phóng ngựa phía trước. Kì cục sao, con trắng đậu trên giáp vai nữ hoàng, móng của nó bám vào khe hở trên chiếc áo giáp vàng của bà.
Quân Varden vẫn tiếp tục tiến sâu hơn vào lòng Urû’baen.
“Có chuyện gì vậy, Cây Búa Dũng Mãnh?” Nar Garzhvog gầm lên tiến tới bên Roran.
Roran liếc nhìn lên gã Kull đầu bự chảng. “Tôi không chắc lắm. Galbatorix …”
Anh quên ngay những gì mình định nói khi tiếng tù và vang lên giữa các tòa nhà phía trước. Tiếng kèn trầm trầm quái gở kéo dài hơn nửa phút khiến quân Varden khựng lại, nhìn quanh lo lắng.
Tim Roran như rụng xuống. “Đây rồi,” anh nói với Albriech. Quay người lại anh vẫy búa, chỉ về phía bên con đường. “Mai phục!” anh rống lên. “Chiu vào các tòa nhà, tránh đi!”
Tiểu đoàn của anh mất thời gian hơn nhiều để thoát ra khỏi đoàn quân. Bực mình, anh la hét, cố khiến họ di chuyển nhanh hơn. “Nhanh lên, mấy tên ngốc này! Nhanh lên!”
Tiếng tù và lại vang lên, rốt cục Jörmundur cũng ra lệnh dừng tiến quân.
Khi đó quân của Roran đã trốn an toàn trong ba con phố, đứng tụm vào trong các ngôi nhà chờ lệnh. Roran đứng sát trong một ngôi nhà cùng với Garzhvog và chú Horst, đứng ở góc cửa nhìn chăm chú xem chuyện gì đang xảy ra.
Rồi một tiếng tù và nữa vang lên, tiếng bước chân nặng nền vang khắp Urû’baen.
Roran kinh hãi khi anh thấy hàng đoàn hàng đoàn binh lính hành quân ra từ các con phố dẫn ra từ tòa thành, nhanh nhẹn, đầy kỉ luật, khuôn mặt không hề có một chút vẻ sợ hãi. Dẫn đần chúng là một gã lùn vai rộng trên con chiến mã màu xám. Hắn khoác bộ giáp sáng bóng phình ra cả tấc như thể cho lọt cái bụng lớn. Tay trái hắn đeo một chiếc khiên có hình tháp công thành trên đỉnh đồi trọc. Tay phải hắn cầm cây chùy đầu nhọn mà người thường khó mang được, nhưng hắn đang vung vẩy nó nhẹ nhàng.
Roran liếm môi. Anh đoán hắn không ai chính là Tướng Barst, nhưng chỉ cần một nữa những gì anh nghe về hắn đúng thôi, thì Barst cũng sẽ không bao giờ đối mặt trực diện với địch trừ khi hắn chắn chắn tiêu diệt được đối phương.
Roran thấy thế là quá đủ. Nhảy ra khỏi góc nhà, anh nói, “Chúng ta không chờ nữa. Gọi những người khác theo.”
“Ý anh là bỏ chạy hả, Cây Búa Dũng Mãnh?” Nar Garzhvog gầm gừ.
“Không,” Roran nói. “Ý tôi là đột kích từ bên sườn. Có rồ mới tấn công đoàn quân như thế này trực diện. Giờ đi!” Anh xô gã Urgal một cái, rồi đi thẳng xuống con đường dẫn đầu các chiến binh. Và có rồ mới chạm trán trực tiếp với kẻ Galbatorix chọn dẫn đầu quân đội của lão.
Khi họ lần qua những ngôi nhà san sát, Roran nghe binh lính bắt đầu hô, “Tướng Barst! Tướng Barst! Tướng Barst!”. Chúng dậm huỳnh huỵch lên mặt đất bằng đôi bốt đinh, vừa gõ gươm vào khiên vang dội.
Càng lúc càng hay, Roran nghĩ, ước gì mình ở bất kì đâu cũng được chứ không phải nơi này.
Rồi quân Varden hô vang đáp trả rộn ràng “Eragon!”, “Kỵ Sỹ Rồng!” thành phố rung chuyển cùng hàng tràng kim khí va chạm và tiếng la hét của binh sĩ bị thương.
Khi tiểu đoàn tiến đến điểm Roran ước chừng ở giữa quân đoàn Đế chế, anh lệnh họ dàn đội ngũ quay về phía địch. “Ở cạnh nhau,” anh ra lệnh. “Tiến lên từ bức tường với khiên phía trước, kiên quyết bảo vệ các pháp sư.”
Họ nhanh chóng nhận thấy binh lính trên con phố - chủ yếu là quân thương – dồn vào nhau khi chúng lê bước tới trận tiền.
Nar Garzhvog gầm lên hung tợn, Roran và các chiến binh khác cũng vậy, họ lao thẳng vào hàng ngũ quân địch. Binh lính hô lên cảnh báo, sự hốt hoảng lan đi khiến chúng dạt lùi lại, dẫm đạp nhau khi cố tìm khoảng trống chiến đấu.
Roran tru lên một tiếng, lao thẳng xuống hàng đầu tiên của địch. Máu bắn tung tóe khoe anh vung búa đập vào xương và kim khí. Lũ binh lính đứng chật chội đến mức chúng gần như vô dụng. Anh giết bốn tên trước khi chúng kịp vung gươm, bị anh đỡ bằng khiên.
Phía cuối con phố, Nar Garzhvog đốn ngã sáu tên chỉ bằng một phát dùi cui. Lũ lính lồm cồm bò dậy, không bận tâm đến vết thương có thể làm chúng tê liệt nếu biết đau, rồi Garzhvog giáng thêm một phát, quăng chúng đi như búp bê.
Roran không còn biết gì khác ngoài những tên lính trước mặt, sức nặng của cây búa trong tay và mặt đất đá trơn tuột vì nhốm máu dưới chân. Anh tàn phá, chiến đấu, anh cúi mình xô đẩy, anh gầm lên la hét, giết, giết, giết – cho đến khi ngạc nhiên phát hiện ra mình đang vung búa vào không khí. Vũ khí đập mạnh xuống nền đá tóe lửa, xóc lên đau đớn cả cánh tay anh.
Roran lắc mạnh đầu, cơn say chiến đấu nhạt dần; anh vất vả trèo qua đống xác của đám binh lính.
Ngoảnh lại, anh thấy phần lớn các chiến binh của mình vẫn chiến đấu với lũ lính. Gầm lên một tiếng nữa, anh lại nhảy bổ vào tiếp tục.
Ba tên lính đứng ngay gần anh: hai tên cầm thương, một tên cầm gươm. Roran nhào tới xô ngã tên cầm gươm, nhưng bị trượt chân khi giẫm phải cái gì đó mềm oặt. Ngay khi ngã, anh vẫn kịp vung búa đập vào mắt cá chân tên gần nhất. Gã lính nhảy lùi lại cố đâm xuống Roran, nhưng một tiên nhân nhảy tới và chỉ cần hai chiêu đã lấy đầu được cả ba tên.
Đó là tiên nữ anh đã la hét phía bên ngoài tường thành, giờ tơi tả với vạt áo đẫm máu. Trước khi anh kịp cảm ơn, bà đã phóng qua, thanh kiếm lượn mờ ảo khi bà hạ gục nhiều tên khác.
Sau khi nhìn họ chiến đấu, Roran kết luận mỗi tiên nhân mạnh ngang ít nhất năm người, chưa kể họ còn có thể phù phép. Đối với các Urgal, anh cố tránh xa khỏi họ, đặc biệt là các Kull. Khi hăng máu lên thì họ chẳng còn phân biệt địch ta gì hết, mà các Kull thì quá lớn, giết ai đó quá đơn giản mà không cần phải để ý. Anh thấy có Kull ép nát một tên lính vào tường nhà mà chẳng hay biết. Rồi anh lại thấy một Kull khác cắt đầu một tên lính khi vô ý xoạc khiên quay lại.
Cuộc đấu kéo dài thêm vài phút, khi những tên lính cuối cùng còn sót lại đều đã chết.
Quẹt mồ hôi trên khóe mắt, Roran nhìn dọc con phố. Xa hơn trong thành phố, anh thấy tàn dư của đội ngũ vừa bị tiêu diệt biết mất trong những ngôi nhà, nhập bọn vào những quân đoàn khác của Galbatorix. Anh định đuổi theo chúng, nhưng trận chiến quá gần rìa thành phố, mà anh thì muốn cắt đứt tuyến giữa của chúng khi đang tấn công.
“Đường này!” anh hét lên, nâng búa chạy dọc xuống con phố.
Một mũi tên cắm thẳng vào cạnh khiên, anh ngước lên thấy một bóng người trượt xuống mái nhà gần đó.
Khi Roran trồi lên từ mấy ngôi nhà sát nhau gần quảng trường trước đống đổ nát của cổng thàng, anh thấy một cảnh tượng làm anh bối rối không biết phải làm sao.
Hai đoàn quân hòa lẫn vào nhau cho đến khi không thể xác định được hàng ngũ gì cả, thậm chí cả không rõ tiền tuyến ở đâu nữa. Quân phục đỏ thẫm của binh lính rải rác khắp quảng trường, có khi lác đác, có khi thành cụm lớn, cuộc chiến lan ra khắp các con phố gần đó, hai đoàn quân tràn ra như vết dầu loang. Giữa những binh sĩ, Roran thấy như đoán trước hàng trăm con mèo – mèo thường, không phải ma mèo – đang tấn công binh lính, anh chưa bao giờ thấy chung hung dữ đáng sợ như vậy. Anh biết lũ mèo được sự chỉ dẫn của ma mèo.
Rồi ở trung tâm quảng trường, Tướng Barst đang cưỡi trên con chiến mã xám, bộ giáp lớn của hắn lóe sáng ảnh lửa đốt cháy những ngôi nhà kế bên. Hắn vung chùy hết lượt này đến lượt khác, nhanh hơn khả năng của con người, mỗi lần hạ gục ít nhất một quân Varden. Tên bắn về phía hắn nhanh chóng bị thiêu rụi trong ngọn lửa da cam, gươm giáo trúng hắn bật ra như thể đập vào đá, kể cả một Kull lao tới cũng không đủ mạnh thúc hắn ra khỏi con ngựa. Roran kinh ngạc thấy chỉ bằng một cú vụt bình thường, hắn có thể làm vỡ sọ và sừng một Kull như thể đập vỏ trứng.
Roran nhăn mặt. Thế quái nào mà hắn nhanh và mạnh như thế được? Câu trả lời thì dĩ nhiên là phép thuật rồi, nhưng kể cả phép thuật cũng phải có nguồn gốc. Không có viên ngọc nào trên cây chùy hay giáp của Barst cả, Roran cũng không tin Galbatorix có thể cung cấp năng lượng cho hắn từ khoảng cách này. Roran nhớ lại cuộc nói chuyện với Eragon trước khi giải cứu Katrina ở Helgrind. Eragon từng nói không thể thay đổi cơ nhục của con người để có sức mạnh và tốc độ như tiên nhân được, kể cả cho dù là Kỵ Sỹ đi nữa – những gì loài rồng làm với Eragon trong Lễ Huyết Thệ cũng quá thần kì. Có vẻ Galbatorix cũng không làm như vậy đối với Barst, khiến Roran băn khoăn, nguồn gốc sức mạnh phi phàm của hắn ở đâu ra vậy?
Barst giật yên cương quay con chiến mã lại. Tia sáng lóe lên trên bề mặt bộ giáp phình ra khiến Roran chú ý.
Miệng Roran khô lại trong cơn tuyệt vọng. Từ những gì anh biết, Barst không béo. Hắn sẽ không khiến cơ thể yếu đuối, mà Galbatorix cũng sẽ không chọn kẻ như vậy bảo vệ Urû’baen. Cách giải thích hợp lý duy nhật là Barst giấu một Eldunarí trong lòng áo giáp có hình dạng kì cục.
Rồi con phố rung chuyển tách ra, một chiếc hố xuất hiện bên dưới Barst và con chiến mã. Miệng hố thừa đủ để nuốt gọn cả hai, nhưng con ngựa vẫn đứng trên không trung như thể trên đất bằng. Một vầng sáng màu lung linh xung quanh Barst như thể hào quang hay một mảnh cầu vồng. Những đợt khí nóng rồi lạnh phát ra từ phía Barst, rồi Roran thấy những lưỡi băng tua tủa mọc lên từ mặt đất, cố quấn quanh chận con chiến mã giữ chặt nó. Nhưng cọc băng không thể bắt con ngựa, bất kể phép thuật nào cũng không có tác dụng gì lên chúng.
Barst lại giật cương ngựa, phi thẳng đến một nhóm tiên nhân đứng gần một ngôi nhà niệm cổ ngữ. Roran đoán có lẽ họ đã phóng bùa chú vào Barst.
Giơ chùy cao quá đầu, Barst phi thẳng vào giữa đám tiên nhân. Họ chạy tán loạn cố tự bảo vệ, nhưng vô nghĩa, Barst đập vỡ khiên và gươm của họ nhẹ nhàng, rồi khi hắn đánh trúng, cái chùy nghiền nát các tiên nhân như thể xương cốt của họ mảnh khảnh rỗng tuếch như của loài chim.
Sao lưới phòng hộ không bảo vệ họ? Roran wondered. Sao họ không tấn công hắn bằng tâm trí? Hắn chỉ có một người, mà chỉ có một Eldunarí.
Cách vài bộ, một tảng đá bự chảng đạp thẳng vào biển người đang chiến đấu, để lại một vệt dài đỏ thẫm, rồibật lên dội vào mặt trước tòa nhá, nghiền nát bức tượng trên khung cửa.
Roran cúi xuống, chửi thề, nhìn về phía những hòn đá phóng ra. Từ phía kia của thành phố, anh thấy lính của Galbatorix đã chiếm được các máy bắn đá trên tường thành. Chúng đang bắn chính thành phố của mình, anh cáu. Chúng đang bắn chính đồng đội của mình.
Gầm lên kinh tởm, anh chạy khỏi quảng trường, đối mặt với khu nội thành. “Chúng ta không làm gì ở đây được!” anh hô lên với tiểu đoàn. “Để Barst lại cho người khác. Chiếm lấy những con phố phía đó!” Anh chỉ sang trái. “Chúng ta sẽ đánh đến tường thành và dừng ở đó!”
Rồi anh phóng vụt đi ngay lập tức, còn không kịp nghe các binh sĩ có phản ứng gì. Phía sau anh, một tảng đá khác lao xuống hai quân đoàn đang chiến đấu, tiếng kêu gào đau đớn còn vang vọng hơn.
Con phố Roran chọn đầy rẫy binh lính, cũng như rất ít thần tiên và ma mèo, lúc này đang túm tụm lại trước cửa hàng mũ, vất vả cầm cũ lũ lượt binh lính vây quanh. Các tiên nhân hét lên, khoảng một tá lính ngã xuống, nhưng số còn lại vẫn đứng được.
Nhảy thằng vào giữa đám lính, Roran lại chìm đắm trong trận chiến đẫm máu. Anh nhảy lên xác một tên lính, hạ búa xuống đầu một tên khác khi quay lưng. Tự tin hắn đã chết, Roran dùng khiên đẩy tên kế tiếp lại, đâm mạnh cán búa chọc thủng cổ họng hắn.
Bên cạnh anh, Delwin bị một thanh thương đâm vào vai, quỳ xuống bằng một chân kêu lên đau đớn. Vung búa nhanh hơn, Roran đẩy lùi gã lính trong khi Delwin rút thương ra đứng lên.
“Lui lại,” Roran gào lên.
Delwin lắc đầu nhe răng. “Không!”
“Lui lại, mẹ kiếp! Đấy là lệnh.”
Delwin chửi thề nhưng vẫn tuân lệnh, chú Horst thế chỗ cậu. Roran để ý người thợ rèn chảy máu từ những vết chém trên tay chân, nhưng chúng không làm ông chậm đi chút nào.
Tránh một cú đâm, Roran bước về phía trước. Có vẻ anh nghe thấy một tiếng soạt nhẹ sau lưng, rồi có tiếng sấm nổ bên tai, bầu trời như quay cuồng, tối sầm đi.
Anh tỉnh dậy đầu vẫn đau nhói. Phía trên anh thấy bầu trời – sáng bừng bởi ánh mặt trời – và mảng tối phía dưới phiến đá nứt nẻ nhô ra.
Rên lên vì đau, anh cố đứng dậy. Anh đang nằm dưới chân của bức tường thành bên ngoài, bên cạnh mảnh đá vỡ dính đầy máu. Cả khiên và búa đều văng mất, khiến anh mụ đi một lúc.
Ngay khi anh cố lấy thăng bằng, một tốp năm tên linh lao thẳng đến, một tên đâm thương vào ngực anh. Mũi thương đẩy anh đập tường, nhưng không chạm vào da.
“Tóm lấy nó!” mấy tên lính la lên, Roran thấy cả tay và chân đều bị giữ chặt. Anh quẫy đạp cố gắng vùng ra, nhưng anh vẫn quá yếu và choáng váng, hơn nữa lại bị quá nhiều tên lính áp đảo.
Bọn lính đánh anh liên tục, anh cảm thấy sức mạnh càng lúc càng giảm khi lớp bảo vệ chắn anh khỏi những đòn đánh. Mọi thứ như xám xịt lại, anh dần thấy ngất đi, cho đến khi một thanh gươm xọc ra từ miệng một tên lính.
Lũ lính thả anh ra, Roran nhìn thấy người phụ nữ tóc đen xoay tít giữa bọn lính, thanh kiếm múa điêu luyện hơn cả những chiến binh dày dặn. Trong vài giây, bà giết sạch cả năm tên, dù gã cuối cùng cắt được một vết nông phía dưới đùi trái bà.
Tiếp đó, bà đưa tay ra đỡ anh nói, “Cây Búa Dũng Mãnh.”
Anh bám chắc tay bà, nhìn lên cổ tay - nơi bao tay không che kín – vằn vện những sẹo, như thể bà từng bị đốt hay quất tới tận xương. Đằng sau bà là một cô bé sắc mặt tái nhợt mặc áo giáo khuyên, và một bé trai nhỏ hơn một hai tuổi gì đó.
“Bà là ai?” anh đứng lên. Khuôn mặt người phụ nữ rất ấn tượng: nó rộng, vững chãi, ánh mắt sắc sảo dạn dày sương gió của người từng trải qua cả cuộc đời giông tố.
“Một kẻ qua đường mà thôi,” bà nói. Bà cúi xuống nhặt lên một thanh thương đưa cho anh.
“Xin cảm ơn.”
Bà gật nhẹ, rồi cùng với hai người đồng hành nhỏ tuổi bước giữa những ngôi nhà, tiến sâu vào lòng thành phố.
Roran nhìn trân trối họ trong nửa giây lo lắng, rồi lắc mạnh đầu, rảo bước về con phố với tiểu đoàn của mình.
Các chiến binh chào đón anh bằng tiếng hô vang kinh ngạc, phấn khích tấn công địch với khi thế dồn dập. Tuy nhiên, khi Roran quay qua các đồng đội từ làng Carvahall, anh nhận ra tảng đá bắn trúng anh còn giết cả Delwin nữa. Nỗi buồn nhanh chóng chuyển thành cơn cuồng nộ, anh chiến đấu điên cuồng hơn bao giờ hết, quyết tâm kết thúc trận chiến càng nhanh càng tốt.
Tên của các tên (The Name of All Names)
Vừa sợ hãi vừa quyết tâm, Eragon bước cùng Arya, Elva và Saphira về phía bệ đá nơi Galbatorix đang ngồi thoải mái trên ngai vàng.
Quãng đường đi đủ dài để Eragon cân nhắc một loạt chiến thuật mà hầu như đều không khả thi tí nào. Nó biết chỉ sức mạnh không thôi chưa đủ để đánh bại nhà vua; phải khôn khéo nữa, mà cái đó thì nó cảm thấy kém nhất. Dù sao nó không có lựa chọn nào khác ngoài việc đối mặt với Galbatorix.
Hai hàng đèn lồng dẫn tới bệ đá rộng đủ cho họ bước cạnh nhau. Eragon cảm thấy mừng, vì Saphira có thể chiến đấu ngay nếu cần thiết.
Khi họ tiến gần ngai vàng, Eragon tiếp tục xem xét căn phòng. Nó nghĩ nơi kì lạ này không giống nơi để vui tiếp khách khứa. Ngoài hướng đi được rọi sáng phía trước, toàn bộ phần còn lại ẩn trong bóng tối xám xịt - còn hơn cả sảnh đường của người lùn dưới lòng Tronjheim và Farrthen Dûr – không khí khô đượm mùi xạ hương quen thuộc, dù nó không nhớ ra ở đâu.
“Shruikan đâu rồi?” nó trầm giọng hỏi.
Saphira khụt khịt. Em có thể ngửi thấy nó, nhưng không nghe thấy gì hết.
Elva cau mày. “Tôi cũng không cảm thấy con rồng.”
Khi chỉ còn cách bệ đá chừng ba mươi thước, họ dừng lại. Phía sau ngai vàng phủ xuống bức màn đen dầy như nhung, treo lên từ mái nhà.
Bóng đen phủ lên Galbatorix, che đi hình hài của lão. Rồi lão ngả người ra ánh sáng, và Eragon nhìn khuôn mặt lão. Nó dài, mảnh khảnh, lông mày sâu, mũi sắc như gươm. Cặp mắt lão sắc như đá, tròng mắt trắng nhờ nhờ. Miệng lão mỏng và khóe hơi chếch xuống, lão để râu cắt tỉa gọn gàng và ria mép, đen như dầu hắc ín y hệt như quần áo lão đang mặc. Nhìn qua lão trạc tầm bốn mươi: độ tuổi đỉnh cao sung mãn, nhưng bên bờ suy sụp. Có những nếp nhăn trên lông mày và hai bên mũi, làn da sạm của lão nhìn có vẻ mỏng tang như thể lão không ăn gì ngoài thịt thỏ và củ cải trong suốt mùa đông. Vai lão rộng và chắc chắn, hông thon gọn.
Trên đầu lão đội một vương miện màu đỏ làm từ vàng đính đủ loại đá quý. Chiếc vương miện nhìn cũ kĩ – còn hơn cả căn phòng, Eragon tự hỏi có phải nó từng thuộc về vua Palancar hàng trăm năm trước hay không.
Thanh gươm của lão nằm trên vạt áo. Đó là một thanh gươm Kỵ Sỹ, hiển nhiên, nhưng Eragon chưa thấy cái như thế bao giờ. Cả lưỡi gươm, cán lẫn đầu nối đều trắng muốt, một viên ngọc đính trên chuôi kiếm trong suốt như nước suối. Nói chung, có gì đó ở thanh gươm khiến Eragon không dễ chịu tí nào. Màu của nó – hay đúng hơn là cái sự thiếu màu sắc– gợi nó nhớ đến những mảnh xương trải qua nắng gió. Đó là màu của cái chết, không phải sự sống, trông còn đáng sợ hơn màu đen nhiều.
Galbatorix xem xét từng người bọn họ bắng ánh mắt sắc lẻm không chớp. “Thế là, các cậu đến đây để giết ta,” lão nói. “Được rồi, bắt đầu chưa?” Lão nhấc thanh gươm rồi dang tay ra như thể chào mời.
Eragon xoải chân, nâng gươm và khiên lên. Lời mời của nhà vua làm nó khó chịu kinh khủng. Lão đang đùa với bọn ta.
Vẫn nắm chặt thanh Dauthdaert, Elva bước lên rồi bắt đầu nói. Nhưng cô bé không thốt ra lời nào, ánh mắt nhìn Eragon cảnh báo.
Eragon cố gắng chạm vào tâm trí cô bé, nhưng nó không cảm thấy tư tưởng của cô bé, nhưng thể cô bé không còn ở trong phòng nữa.
Galbatorix cười ngả, rồi thả lưỡi gươm xuống vạt áo và dựa vào ngai. “Nhóc thực tin rằng ta không để ý đến khả năng của nhóc à? Nhóc thực nghĩ rằng có thể khiến ta khổ sở bằng trò vặt vãnh rõ như ban ngày đó à? Ờ phải, ta không nghi ngờ lời nói của nhóc có thể làm tổn thương mình, nhưng chỉ khi ta nghe chúng thôi.” Vành môi nhợt nhạt của lão cong lên thành nụ cười độc ác, vô cảm. “Điên rồ làm sao. Đây là toàn bộ kế hoạch của các người à? Con bé sẽ không thể nói trừ khi ta cho phép nó rời khỏi đây, một cây thương đáng treo lên tường hơn là mang ra chiến đấu, rồi một đám Eldunarí gần như lẩn thẩn với tuổi tác à? Chậc, chậc. Ta tưởng cô phải khá hơn chứ, Arya. Ông nữa, Glaedr, nhưng ta ngờ cảm xúc của ông đã che mờ trí nhớ từ khi ta cho Murtagh giết Oromis rồi thì phải.”
Glaedr giục Eragon, Saphira và Arya, Giết hắn. Con rồng cảm thấy cực kì bình tĩnh, nhưng trong sự trầm lặng lộ ra cơn giận áp đảo mọi cảm xúc khác.
Eragon liếc mắt với Arya và Saphira, rồi cả ba cùng tiến tới bệ đá, kể cả Glaedr, Umaroth và các Eldunarí cũng cố tấn công trí óc Gallbatorix.
Trước khi Eragon đi được vài bước, nhà vua đứng dậy khỏi chiếc ghế nhung, hô to một Từ. Từ đó vang dội trong trí óc Eragon, từng phần trong cơ thể nó vỗ nhẹ hưởng ứng, như thể nó là một nhạc cụ vừa được người nghệ sĩ gảy nốt. Cho dù có cố gắng thế nào, Eragon cũng không thể nhớ Từ đó được; nó tan ngay trong tâm trí Eragon, chỉ còn sót lại ý nghĩ về sự tồn tại và ảnh hưởng tới nó.
Galbatorix thốt ra những từ khác sau đó, nhưng không có sức mạnh tương tự, còn Eragon thì mụ người đi không hiểu nổi ý nghĩa của chúng. Nhà vua vừa dứt lời, một lực lượng trói chặt Eragon, ép nó không đi nổi. Lực trói khiến nó kêu lên ngạc nhiên. Nó cố cử động, nhưng cơ thể như bị nhúng vào đá vậy. Tất cả những gì nó có thể làm là thở, nhìn, và nói.
Nó không hiểu nổi: lưới phòng vệ đáng ra phải bảo vệ nó khỏi phép thuật của nhà vua. Chúng đáng lẽ không để nó phải chới với trên bờ vực thẳm như thế này.
Cạnh nó, Saphira, Arya và Elva cũng có vẻ bất động y hệt.
Tức tối vì nhà vua bắt nó quá dễ dàng, Eragon kết nối tâm trí với các Eldunarí lúc này đang chống cự lại tâm thức của Galbatorix. Nó cảm thấy có một lượng lớn tâm trí khác chống lại họ - tất cả đều là rồng, đang than vãn, lảm nhảm, kêu thét điên dại những điệp khúc rời rạc chỉ chứa nỗi đau đỡn và u buồn, Eragon cố thoát ra tránh chúng kéo nó vào cơn điên loạn. Chúng cũng mạnh nữa, như thể ít ra cũng phải ngang Glaedr hoặc lớn hơn.
Lũ rồng cản trở khiến không thể nào trực tiếp tấn công tâm trí Galbatorix được. Cứ mỗi lần Eragon nghĩ nó cảm thấy chạm được vào tư tưởng nhà vua, một con rồng bị giam lại nhảy vào tâm trí nó, lắp bắp liên hồi – buộc nó phải rút lui. Chống cự lũ rồng thực khó, bởi suy nghĩ của chúng hoang dã và không liền mạch; khuất phục bất kì con rồng nào trong số chúng cũng hệt như dí đầu một con sói dại. Hơn nữa, số lượng của chúng quá lớn, hơn nhiều so với số các Kỵ Sỹ giấu ở Thung Lũng Linh Hồn.
Trước khi bên nào chiếm được lợi thế, Galbatorix nói, có vẻ hoàn toàn không ảnh hưởng gì bởi cuộc chiến vô hình, “Ra đây nào, các con yêu, ra gặp khách nào.”
Một bé trai và một bé gái nhô ra từ sau ngai vàng đứng bên tay phải nhà vua. Bé gái tầm sáu tuổi, trong khi bé trai có lẽ tám hay chín. Chúng trông rất giống nhau, Eragon đoán có lẽ là hai anh em. Cả hai đều mặc đồ ngủ. Bé gái cầm tay bé trai núp sau lưng anh, trong khi bé trai có vẻ sợ hãi nhưng cũng quyết tâm. Kể cả khi đang chống lại các Eldunarí của Galbatorix, Eragon cũng cảm nhận được tâm trí của lũ trẻ - cảm thấy nỗi sợ và bối rối của chúng – nó biết chúng có thật.
“Con bé đáng yêu không nào?” Galbatorix nhấc cằm bé gái vuốt nhẹ bằng ngón tay dài. “Đôi mắt to và mái tóc đẹp dường này. Và thằng bé cũng đẹp trai quá chứ?” Lão đặt tay lên vai bé trai. “Con cái, ai đó nói rằng là lời cầu chúc cho tất cả chúng ta. Ta thì không chia sẻ niềm tin đó đâu. Từ kinh nghiệm của ta, mỗi đứa trẻ đều tàn nhẫn và thù hận chẳng kém người lớn. Chúng chỉ thiếu sức mạnh để khuất phục kẻ khác mà thôi.
“Có lẽ các người sẽ đồng ý với ta, có khi không. Dù sao, ta biết mỗi kẻ Varden các người tự hào về đức hạnh của mình lắm. Các người nghĩ mình là kẻ thực thi công lý, kẻ bảo vệ những người vô tội – như thể có ai đó thực sự vô tội. Được thôi; cho ta thấy lòng tin của các người, xem các người có đúng như những gì tuyên bố không nào. Trừ khi các người ngừng tấn công, nếu không ta sẽ giết cả hai” – lão lắc lắc vai bé trai – “và ta sẽ giết chúng nếu các người dám tấn công lần nữa … Thực ra thì nếu các người làm ta bất mãn quá, thì ta cũng cứ giết chúng thôi, nên ta khuyên các người hãy nhã nhặn một chút.” Cả hai đứa bé có vẻ phát bệnh bởi lời lão, nhưng chúng không cố bỏ chạy.
Eragon nhìn Arya, nó cũng thấy nỗi tuyệt vọng trong mắt cô.
Umaroth! Họ thét lên.
Không, con rồng trắng gầm lên, kể cả khi nó đang vật lộn với tâm trí một Eldunarí khác.
Người phải ngừng lại, Arya cầu khẩn.
Không!
Lão sẽ giết chúng mất, Eragon van.
Không, chúng ta sẽ không từ bỏ. Không phải lúc này!
Đủ rồi đấy! Glaedr gầm lên. Những con chim non đang gặp nguy hiểm!
Và sẽ thêm những con chim non sẽ hiểm nguy nếu chúng ta không giết Kẻ-Phá-Trứng ngay.
Đúng, nhưng bây giờ thì không phải là lúc. Arya nói. Cứ chờ thêm một lúc nữa, có lẽ chúng ta sẽ tìm ra cách tấn công lão mà không phải mạo hiểm tính mạng của bọn trẻ.
Nếu không thì sao? Umaroth hỏi.
Cả Eragon và Arya đều không trả lời nổi.
Thì chúng ta sẽ làm điều cần thiết, Saphira lặng lẽ. Eragon ghét chuyện này, nhưng nó biết cô nàng nói phải. Họ không để đặt tính mạng của hai đứa trẻ lên trước toàn bộ Alagaësia được. Nếu có thể, họ sẽ cố cứu hai đứa bé, nhưng nếu không, họ sẽ cứ tấn công. Không còn lựa chọn nào khác.
Khi Umaroth và các Eldunarí khác miễn cưỡng rút lui, Galbatorix mỉm cười. “Thế, tốt hơn rồi. Giờ hãy nói chuyện như những người văn minh nào, mà không phải lo ai sẽ giết ai nhé.” Lão vỗ nhẹ đầu bé trai rồi chỉ vào bậc thềm của bệ đá. “Ngồi”. Không cự nự gì hết, hai đứa trẻ ngồi ngay xuống bậc thấp nhất, cách xa nhà vua nhất có thể. Rồi Galbatorix tiến lại nói, “Kausta,” Eragon trượt dần về phía bệ đá, cùng với Arya, Elva và Saphira.
Eragon vẫn hoang mang không hiểu tại sao lưới phòng hộ của họ lại không có tác dụng. Nó nghĩ về Từ đó- dù nó là gì – nỗi nghi ngờ khủng khiếp nảy lên trong ý nghĩ nó. Rồi đến tuyệt vọng. Nào là kế hoạch, bàn bạc, lo lắng, đau khổ, bao nhiêu hy sinh, Galbatorix vẫn bắt họ dễ như tóm một ổ mèo con sơ sinh. Nếu nghi ngờ của Eragon chính xác, nhà vua còn ghê gớm hơn cả họ có thể tưởng tượng.
Tuy nhiên họ không mất sạch hy vọng. Tâm trí, đến bây giờ, vẫn là của họ. Nó biết họ có thể dùng pháp thuật … cách này hay cách khác.
Galbatorix nhìn chăm chú Eragon. “Vậy cậu là kẻ gây cho ta bao nhiêu phiền phức đấy à, Eragon, con trai Morzan… Chúng ta đáng lẽ phải gặp nhau lâu rồi. Mẹ câu thật ngốc đã giấu cậu ở Carvahall, cậu lẽ ra phải lớn lên ở Urû’baen này, trong sự vinh quang, giàu có và trách nhiệm kèm theo, hơn là ngày ngày đào bới đất cát.
“Nhưng muộn còn hơn không, giờ cậu đã ở đây, những thứ đó sẽ thuộc về cậu. Chúng là tài sản của cậu, tài sản thừa kế, và ta sẽ giao nó cho cậu.” Lão có vẻ đang xem xét Eragon kĩ lưỡng hơn hết, rồi nói, “Cậu giống mẹ hơn giống cha đấy. Murtagh thì ngược lại. Không thành vấn đề cho lắm. Cậu giống ai cũng được, cậu và anh trai đều phục vụ ta là phải thôi, kể cả cha mẹ cậu nữa.”
“Không bao giờ,” Eragon nghiến răng.
Gương mặt nhà vua lóe lên nụ cười nhạt. “Không bao giờ à? Ta sẽ thấy ngay thôi.” Ánh mắt lão chuyển hướng. “Và người, Saphira. Trong các vị khách hôm nay, ta vui mừng gặp người nhất đấy. Ngươi đã trưởng thành thật tốt nhỉ. Ngươi có nhớ nơi này không? Có nhớ thanh âm của ta hay không? Ta dành nhiều đêm nói chuyện với ngươi và những quả trứng khác trên cương vị của mình, trong bao năm ta củng cố vương quyền trên lãnh thổ Đế chế.”
Tôi… tôi nhớ một chút, Saphira nói, Eragon lặp lại với nhà vua. Cô nàng không muốn tiếp xúc trực tiếp với lão, mà lão cũng không cho phép điều đó. Cách biệt tâm thức là cách tốt nhất đảm bảo tránh được xung đột công khai.
Galbatorix gật gù. “Ta chắc ngươi sẽ nhớ rõ hơn khi ở lại nơi này. Người có thể không hiểu rõ ngay, nhưng hầu hết cuộc đời ngươi đã sống ở một căn phòng gần đây thôi. Đó là nơi ngươi thuộc về. Đó là nơi ngươi sẽ xây tổ và đẻ trứng.”
Đôi mắt Saphira co lại, Eragon nhận thấy khao khát kì lạ dâng lên trong cô nàng, lẫn lộn với lòng căm thù hừng hực.
Nhà vua nhìn tiếp. “Arya Dröttningu. Số phận có vẻ hơi hài hước thì phải, đã ở đây, thậm chí ta đã ra lệnh cô được mang tới rất lâu rồi. Con đường của cô có vẻ quanh co hả, nhưng dù sao cô vẫn tới, mà còn tự giác nữa chứ. Ta thấy hơi buồn cười đấy. Cô có thấy thế không?”
Arya mím môi không trả lời.
Galbatorix cười khúc khích. “Ta thừa nhận cô là cái gai trong mắt cũng lâu rồi đấy. Cô không gây nhiều phiền phức như gã lăng xăng vụng về Brom, nhưng cô chẳng ngồi yên tí nào. Ai đó có thể nói toàn bộ vụ này là lỗi của cô, bởi cô đã mang trứng Saphira đến cho Eragon. Tuy nhiên, ta chẳng thù địch gì với cô hết. Nếu không có cô, Saphira sẽ không nở, mà ta cũng không bao giờ lôi được kẻ thủ ra khỏi hang ổ. Vì thế, ta cảm tạ cô.
“Và đây nhóc Elva. Đứa bé mang dấu hiệu Kỵ Sỹ trên trên lông mày. Được rồng in dấu và lời cầu phúc vừa đủ để tiếp nhận mọi nỗi đau và những gì sẽ tổn thương họ. Những đau khổ gì nhóc phải chịu đựng qua bao tháng ngày. Nhóc còn phải chán ghét những kẻ xung quanh bởi sự yếu đuối của chúng, kể cả khi nhóc buộc phải chia sẻ nỗi đau của chúng. Lũ Varden đối xử với nhóc tệ hại thật. Hôm nay ta sẽ kết thục những cuộc chiến đã tra tấn nhóc quá nhiều, nhóc sẽ không bao giờ phải chịu đựng sai lầm và bất hạnh của kẻ khác nữa. Ta hứa đấy. Thi thoảng, ta có lẽ sẽ cần tới năng lực của nhóc, nhưng hầu như nhóc sẽ được sống thoải mái, yên bình.”
Elva cau mày, nhưng hiển nhiên lời đề nghị của nhà vua lôi cuốn cô bé. Eragon nhận ra lắng nghe Galbatorix cũng nguy hiểm không kém lắng nghe Elva vậy.
Galbatorix dừng lại, xoa nhẹ chuôi kiếm bọc dây khi lão chăm chú nhìn họ với anh mắt tăm tối. Rồi lão nhìn thẳng vào khoảng không nơi các Eldunarí đang trôi nổi, và tâm trạng lão có vẻ u ám đi. “Chuyển lời ta đế Umaroth khi ta nói với họ,” lão nói. “Umaroth! Chúng ta lại gặp mặt hơi tệ lần nữa. Ta nghĩ ta đã giết ông ở Vroengard.”
Umaroth đáp lại, Eragon chuyển lời: “Ông ấy nói …”
“… rằng ngươi chỉ giết được thân thể của ông thôi,” Arya tiếp lời.
“Cái đó thì hiển hiên,” Galbatorix cười nhẹ. “Các Kỵ Sỹ đã giấu ông và những người khác ở đâu nhỉ? Vroengard à? Hay nơi nào khác? Ta và các thuộc hạ đã lục soát tàn tích ở Doru Araeba kĩ lắm rồi.”
Eragon chần chừ chuyển câu trả lời của con rồng, rõ là nó sẽ làm nhà vui không vui, nhưng nó không có lựa chọn nào khác. “Ông ấy nói … rằng ông sẽ không bao giờ cho người biết khi vẫn còn tỉnh táo.”
Galbatorix nhíu mày. “Giờ thì thế chắc? Tốt, ông ta sẽ nói cho ta hay sớm thôi, dù muốn hay không.” Nhà vua vỗ nhè nhẹ chuôi kiếm trắng chói lọi. “Ta đã lấy thanh gươm từ tay Kỵ Sỹ của ông ta, cậu biết đấy, khi ta giết hắn – khi ta giết Vrael – trên tháp canh ở Thung Lũng Palancar. Vrael thậm chí còn đặt cả tên cho thanh gươm nữa cơ đấy. Hắn gọi nó là Islingr, ‘Light-bringer. Ta nghĩ Vrangr thì có vẻ … hợp lý hơn.
Vrangr có nghĩa “xiên xẹo”, Eragon đồng ý cái tên ấy hợp với thanh gươm hơn nhiều.
Một tiếng ầm trầm đục vang vọng phía sau, Galbatorix mỉm cười. “A, hay lắm. Murtagh và Thorn sẽ nhập bọn ngay thôi, rồi chúng ta có thể bắt đầu tử tế.” Một tiếng động khác vang lên trong căn phòng, khi tiếng ồn rào rạo phát ra từ nhiều phía một lúc. Lão liếc qua vai nói, “Các người hơi bất cẩn tấn công quá sớm lúc bình minh. Ta đã dậy từ trước rồi – ta dậy sớm hơn bình minh nhiều – nhưng các người đánh thức Shruikan. Nó hay phát cáu khi mệt mỏi, mà khi nó phát cáu thì nó khoái ăn con người lắm. Lũ lính gác của ta học từ lâu không dám làm phiền khi nó nghỉ ngơi rồi. Các người đáng ra phải noi gương chúng chứ.”
Khi Galbatorix đang nói, tấm màn phía sau ngai vàng di chuyển, nhấc lên sàn nhà.
Eragon bị sốc, nhận ra đó thực ra là cánh của Shruikan.
Con hắc long nằm cuộn trên nền nhà, đầu ở gần ngai vàng, cơ thể khổng lồ của nó tạo thành một bức tường quá dốc và quá cao để có thể trèo lên mà không dùng phép thuật. Vảy của nó không rạng ngời như Saphira hay Thorn mà lấp lánh mờ ảo ánh đen. Màu như mực khiến chúng dường như mờ đục, cho chúng cái vẻ mạnh mẽ chắc chắn mà Eragon chưa từng thấy ở những cái vảy rồng trước đấy; như thể Shruikan dát đá hay kim loại chứ không phải ngọc.
Con rồng lớn khổng lồ. Đầu tiên Eragon còn không dám nghĩ một hình thù to cỡ đấy là một sinh vật sống. Nó thấy một phần cổ Shruikan buộc dây, và nghĩ nó đã thấy toàn bộ cơ thể của con rồng; nó thấy một mảng phía sau bàn chân Shruikan mà nó ngỡ đó là cẳng chân. Một khúc cánh mà nó tưởng như cả cái cánh. Chỉ khi nó ngước lên thấy những đốt nọn trên sống lưng con rồng, Eragon mới nhận rõ kích thước của Shruikan. Mỗi đốt nhọn rộng như tán cây sồi cổ thụ, hàng vảy bao quanh chúng phải dày cả tấc, nếu không hơn.
Rồi Shruikan mở mắt nhìn xuống họ. Tròng mắt nó có mày trắng lam nhợt nhạt như màu của tảng băng trên núi cao, sáng lấp lánh trên nền vảy đen.
Con mắt khổng lồ lượn qua lại xem xét mặt của họ. Ánh mắt nó có vẻ không chưa gì khác ngoài thịnh nộ và điên dại, Eragon chắc mẩm Shruikan sẽ giết chúng ngay khi Galbatorix cho phép.
Cái nhìn chằm chằm của con mắt vĩ đại – đặc biệt khi nó có vẻ ác ý dường ấy – khiên Eragon muốn chạy trốn biệt vào trong một hang sâu mãi trong lòng đất. Nó tưởng tượng cảm giác của thỏ khi đối mặt với sinh vật to lớn đầy răng.
Bên cạnh nó, Saphira gầm gừ, những cái vảy lượn sóng, dựng đứng như lông cổ.
Đáp lại, một luồn lửa uể oải phụt ra từ lỗ mũi Shruikan, rồi nó cũng gầm gừ át tiếng Saphira, khiến căn phòng vang dội tiếng ầm ầm như núi lở.
Trên bệ đá, hai đứa trẻ kêu the thé, cố gắng cuộn mình lại, rúc vào hai đầu gối.
“Yên nào, Shruikan,” Galbatorix nói, con hắc long nín ngay. Mí mắt nó sụp xuống, nhưng không khép hẳn; con rồng tiếp tục quan sát chúng qua khoảng vài tấc hé mắt, như thể chờ cơ hội vồ lấy.
“Nó không thích các người lắm,” Galbatorix nói. “Nhưng dù sao, nó cũng chẳng thích ai cả… phải không nhỉ, Shruikan?” Con rồng khụt khịt, không khí phang phảng mùi khói.
Nỗi tuyệt vọng lại tràn ngập Eragon. Shruikan có thể giết Saphira với chỉ một cú bạt vuốt. Dù căn phòng có lớn thế này, nó cũng quá nhỏ để Saphira có thể tránh thường con rồng khổng lồ đủ lâu.
Nỗi tuyệt vọng trong nó chuyển dần thành cơn giận chán nản, nó vặn mạnh sợi dây trói vô hình. “Làm sao ngươi có thể làm vậy?” nó thét, cố tận dụng hết từng sợi cơ trong người.
“Tôi cũng muốn biết nữa,” Arya nói.
Đôi mắt Galbatorix dường như lấp lánh dưới hàng lông mày rậm. “Cô không thể đoán sao, tiên nhân?”
“Tôi muốn biết câu trả lời hơn là đoán mò,” cô đáp.
“Tốt thôi. Nhưng trước tiên các người phải làm một chuyện, để biết ta đang nói sự thật. Các người phải thử phóng một bùa chú, cả hai, rồi ta sẽ nói cho.” Khi thấy cả Eragon và Arya đều không mở miệng, nhà vua ra hiệu. “Cứ làm đi, ta hứa sẽ không trừng phát các người đâu. Thử đi nào … ta nài đấy.|
Arya thử trước. “Thrautha,” giọng cô trầm chắc. Eragon đoán cô muốn phóng thanh Dauthdaert vào Galbatorix. Tuy nhiên thanh vũ khí vẫn nằm yên vị trong tay cô.
Rồi Eragon nói: “Brisingr!” Nó nghĩ liên kết với thanh gươm sẽ cho phép nó dùng được phép thuật khi Arya không thể, nhưng nó thất vọng khi thanh gươm vẫn phát sáng nhàn nhạt trong ánh đèn lồng mờ ảo.”
Ánh mắt Galbatorix trở nên sắc lẻm. “Câu trả lời hiển nhiên rồi chứ, tiên nhân. Ta đã mất cả thế kỉ, nhưng rồi cuối cùng ta đã có thứ mình mãi tìm kiếm: phương tiện điều khiển tất cả các pháp sư ở Alagaësia này. Cuộc tìm kiếm không đơn giản đâu, tất cả những người khác đã chán nản, hoặc nếu đủ kiên nhẫn, sợ hãi. Không phải ta. Ta đã tiếp tục. Qua nghiên cứu, ta tìm ra thứ mình đã khao khát từ rất lâu: một bảng đá viết tay ở vùng đất khác, thời đại khác, không phải do tiên nhân, người lùn, con người hay Urgal viết nên. Trên tấm bảng, khắc lên đó một Từ - cái tên các pháp sư mọi thời đại săn lùng nhưng không đạt được gì ngoài thất vọng não nề.” Galbatorix giơ ngón tay. “Tên của các tên. Tên của cổ ngữ.”
Eragon thầm rủa. Nó đã nghĩ đúng. Đó là những gì lũ Ra’zac đã cố nói với mình, nó nhớ lại khi con quái vật hình thù con trùng nói với nó ở Helgrind: “Ông ta đã gầnnnnn tìm ra cái tên… Cái tên đích thực!”
Tuy chán nản về sự bật mí của Galbatorix, Eragon vẫn bám vào ý nghĩ cái tên đó không thể cản nó hay Arya – thậm chí là Arya – sử dụng phép thuật không dùng cổ ngữ. Vòng phòng ngự của nhà vua chắc chắn bảo vệ lão và Shruikan khỏi bất kì bùa chú nào họ phóng. Tuy nhiên, nếu nhà vua không biết rằng có thể sử dụng phép thuật mà không cần cổ ngữ, hoặc thậm chí nếu lão biết nhưng cho rằng họ không biết, thì họ có thể gây bất ngờ và đánh lạc hướng lão trong khoảnh khắc, dù Eragon không chắc thế có thể giúp gì.
Galbatorix tiếp tục: “Với Từ đó, ta có thể thay đổi thần chú dễ như một pháp sư điều khiển nguyên tố. Tất cả các thần chú sẽ tùy thuộc vào ta, nhưng ta sẽ không cho phép ai hết, trừ những người ta chọn mà thôi.”
Có lẽ lão không biết, Eragon nghĩ, tia sáng quyết tâm lóe lên trong tim nó.
“Ta sẽ sử dụng tên của các tên để cai trị tất cả các phù thủy trên đất Alagaësia, sẽ không ai có thể phù phép nếu ta không cho phép, kể cả tiên nhân. Lúc này pháp sư trong quân các người chắc đã phát hiện ra sự thật rồi. Một khi chúng tiến đủ sâu vào Urû’baen, qua cổng chính, bùa phép của chúng sẽ mất hiệu quả. Vài phép thuật mất linh hoàn toàn, một sẽ trở quẻ và tác động vào quân Varden thay vì của ta.” Galbatorix nghiêng đầu nhìn chằm chằm ra phía xa, như thể đang nghe ai đó thì thầm bên tai. “Nó đã làm hàng ngũ của chúng rối loạn lắm rồi.”
Eragon cố nén nhổ vào nhà vua. “Không quan trọng,” nó gầm lên. “Bọn ta vẫn sẽ tìm ra cách chặn ngươi lại.”
Galbatorix tỏ vẻ thích thú không kềm được. “Thế hả? Như thế nào? Và vì sao? Nghĩ xem cậu đang nói gì. Cậu sẽ chặn đứng cơ hội đầu tiên Alagaësia có một hòa bình thực sự chỉ để thỏa mãn cảm giác trả thù thôi hả? Cậu sẽ để các pháp sư khắp nơi tiếp tục làm gì họ muốn, dù có hại tới người khác thế nào ư? Có vẻ điều đó còn tệ hơn bất cứ những gì ta đã làm. Nhưng đây là một cú đầu cơ rỗng túi đấy. Chiến binh mạnh mẽ nhất trong các Kỵ Sỹ cũng không thể đánh bại ta, mà cậu thì còn xa mới tới được đó lắm. Không ai trong các người cả.”
“Tôi đã giết Durza, và tôi đã giết Ra’zac” Eragon đáp. “Sao không phải ông?”
“Vì ta không yếu như những kẻ tôi tớ ấy. Cậu không thể đánh bại Murtagh, mà nó thì chỉ là cái bóng của những cái bóng. Cha Morzan của cậu hùng mạnh hơn cả hai đứa rất nhiều, kể cả hắn cũng không thể chống được ta. Ngoài ra,” Galbatorix gằn giọng, mặt nhốm vẻ tàn nhẫn, “cậu hơi bị nhầm nếu nghĩ cậu đã diệt được loài Ra’zac. Mấy quả trứng ở Dras-Leona không phải là những quả duy nhất ta lấy từ Lthrblaka đâu. Ta vẫn còn nữa, giấu ở những nơi khác. Chúng sẽ nở sớm thôi, rồi ta sẽ lại có Ra’zac dưới tay để sai bảo. Durza hả, lũ Tà thần cũng dễ tạo ra thôi, và chúng thì hay gây phiền toái nhiều hơn ích lợi. Thế nên, cậu chẳng thắng được cái gì hết, nhóc con – chỉ một vài chiến thắng giả dối.”
Eragon ghét cay đắng hơn hết thảy sự tự mãn của Galbatorix lẫn sự vượt trội tuyệt đối của lão. Nó muốn phát khùng với nhà vua, nguyền rủa lão với mọi lời thề nó biết, nhưng vì sự an toàn của lũ trẻ, nó cố kìm miệng lại.
Em có ý tưởng gì không? Nó hỏi Saphira, Arya và Glaedr.
Không, Saphira nói. Những người khác im lặng.
Umaroth?
Chỉ có tấn công khi vẫn có thể thôi.
Một phút im lặng trôi qua. Galbatorix tựa lên khuỷu tay, chống cằm tiếp tục quan sát họ. Dưới chân lão, hai đứa trẻ khóc rấm rức. Phía trên, mắt Shruikan vẫn nhắm vào Eragon, trông như ngọn đèn lồng màu lục khổng lồ.
Rồi họ nghe thấy tiếng cánh cửa căn phòng mở ra rồi đóng lại, tiếng bước chân lại gần – của cả người và rồng.
Murtagh và Thorn xuất hiện trong tầm mắt. Chúng dừng lại bên cạnh Saphira, Murtagh cúi mình. “Thưa Ngài.”
Nhà vua ra hiệu, Murtagh và Thorn bước sang bên phải ngai vàng.
Khi Murtagh nhìn vào nó, Eragon cảm thấy hắn nhìn nó kinh tởm; rồi hắn chắp tay ra sau nhìn chăm chăm về phía xa căn phòng, bàng quan nó.
“Cậu mất nhiều thời gian hơn ta tưởng đấy,” giọng nói nhẹ nhàng dối trá của Galbatorix vang lên.
Không nhìn sang, Murtagh đáp, “Cánh cổng bị hư hại hơn tôi nghĩ, thưa ngài, bùa chú ngài ếm lên khiến sửa chúng khó hơn.”
“Ý của cậu là bởi lỗi của ta mà cậu lề mề à?
Murtagh nghiến răng. “Không thưa ngài. Tôi chỉ muốn giải thích. Hơn nữa, một phần tiền sảnh khá … lộn xộn, khiến chúng tôi chậm lại.”
Murtag lắc đầu, tiếp tục nhìn chăm chú lên những cây tầm mà. “Không được đâu. Thorn và anh cần ở một mình; bọn anh cần thời gian chữa lành. Nếu ở lại, bọn anh sẽ quá bận rộn để nghĩ về bản thân.”
“Có người bên cạnh, rồi luôn tay luôn chân thường là liều thuốc tuyệt nhất cho tâm hồn bị tổn thương mà.”
“Không phải những gì Galbatorix đã gây ra với bọn anh… Hơn nữa, sẽ rất đau đớn khi ở bên Nasuada lúc này, cho cả anh và cô ấy. Không được, bọn anh phải đi.”
“Anh nghĩ sẽ đi bao lâu?”
“Cho đến khi thế giới này không còn hận thù, bọn anh không còn muốn giết chóc nữa.”
Eragon nín lặng. Họ sánh vai nhìn về phia dòng sông phía dưới hàng liễu thấp. Tiếng gió Tây lùa qua hàng tầm ma càng lúc càng lớn.
Rồi Eragon nói, “Khi các anh không còn muốn ở một mình nữa, cứ đến tìm bọn em. Các anh sẽ luôn được chào đón trong ngôi nhà của bọn em, dù nó có là gì đi nữa.”
“Chắc rồi. Anh hứa đấy.” Eragon ngạc nhiên nhin anh mắt Murtagh sáng lên. Nhưng chỉ giây lát sau nó biến mất. “Cậu biết không,” Murtagh nói, “anh không bao giờ cho rằng cậu có thể làm điều đó … nhưng anh vui vì cậu làm được.”
“Em đã may mắn. Mà cũng sẽ không thể nếu không có anh giúp.”
“Kể cả thế … Cậu có thấy những Eldunarí trong mấy cái túi không?”
Eragon gật nhẹ.
“Tốt lắm.”
Chúng ta có nên nói cho họ không? Eragon hỏi Saphira, hy vọng cô nàng đồng ý.
Saphira nghĩ một hồi. Được, nhưng đừng nói ở đâu. Anh cứ nói với anh ta đi, em sẽ bảo Thorn.
Theo ý em vậy. Eragon nói với Murtagh. “Có một chuyện anh nên biết.”
Murtagh liếc qua nó.
“Quả trứng Galbatorix giữ - nó không phải quả duy nhất ở Alagaësia. Có nhiều hơn nữa, giấu ở cùng nơi bọn em tìm thấy các Eldunarí cùng đi theo.”
Murtagh quay sang, mặt lộ vẻ không tin. Cùng lúc, Thorn uốn cổ, phát ra một tiếng gầm vui sướng làm lũ nhạn bên những nhành cây bên cạnh hoảng sợ.
“Có bao nhiêu?”
“Hàng trăm.”
Trong khoảnh khắc, Murtagh không thốt nên lời. Rồi: “Cậu sẽ làm gì với chúng?”
“Em à? Em nghĩ Saphira và các Eldunarí sẽ có ý kiến trong chuyện này, nhưng có lẽ sẽ tìm nơi nào đó an toàn chờ những quả trứng nở, rồi bắt đầu xây dựng lại đoàn Kỵ Sỹ.”
“Cậu và Saphira sẽ dạy chúng chứ?”
Eragon vươn vai. “Em chắc các thần tiên sẽ giúp. Anh nữa, nếu anh nhập bọn em.”
Murtagh nghiêng đầu thở dài. “Những con rồng sẽ trở lại, và các Kỵ Sĩ nữa.” Anh cười nhẹ. “Thế giới này sẽ thay đổi.”
“Nó đã thay đổi rồi.”
“Uhm. Vậy cậu và Saphira sẽ là lãnh đạo mới của đoàn Kỵ Sỹ, trong khi anh và Thorn sống nơi thâm sơn cùng cốc.” Eragon cố nói gì đó khích lệ Murtagh, nhưng anh nhìn nó. “Không, cứ như thế là hơn. Cậu và Saphira sẽ dạy tốt hơn anh nhiều.”
“Em không chắc đâu.”
“Mmh… Hứa với anh một chuyện.”
“Gì vậy?”
“Khi cậu dạy chúng – hãy dạy chúng đừng sợ hãi. Một ít thì cũng tốt, nhưng khi sợ hãi thường trực, nó sẽ xâu xé bản ngã của cậu, khiến cậu khó có thể làm những việc cậu biết là đúng đắn.”
“Em sẽ cố.”
Rồi Eragon thấy Saphira và Thorn không nói gì nữa. Con rồng đỏ đi vòng quanh cô nàng đến khi cúi xuống nhìn Eragon. Thorn nói giọng ấm áp nghe như một điệu nhạc, Cảm ơn vì đã không giết Kỵ Sỹ của ta, Eragon-Em-trai-Murtagh.
“Ừ, cảm ơn,” Murtagh nói khô không khốc.
“Em mừng vì không phải làm thế,” Eragon nhìn con mắt đỏ rực lấp lảnh của Thorn.
Con rồng khịt mũi, cúi xuống chạm nhẹ đầu Eragon, vuốt ve vảy trên mũ nó. Cầu cho nắng và gió sẽ phù hộ cậu.
“Và của các vị nữa.”
Cảm giác giận giữ, đau thương, mâu thuẫn tràn qua Eragon khi tâm thức Glaedr phủ lấy nó, Murtagh và Thorn có vẻ căng thẳng, chuẩn bị một cuộc đấu. Eragon quên khuấy mất Glaedr cùng các Eldunarí đang ẩn túi không gian vô hình phía sau nó – đã ở đây và nghe cuộc nói chuyện.
Ta có phải cảm ơn vì điều tương tự không, từng lời Glaedr cay đắng như vỏ sồi non. Cậu giết thân thể ta, và cậu giết Kỵ Sỹ của ta. Câu nói thẳng thừng, đơn giản nhưng bởi vậy càng đáng sợ hơn.
Murtagh nói gì đó bằng ý nghĩ, nhưng Eragon không biết đó là gì, vì nó trực tiếp hướng tới Glaedr, và Eragon thì chỉ có thể nghe thấy ý nghĩ của Glaedr mà thôi.
Không, ta không thể, con rồng vàng nói. Tuy nhiên, ta hiểu Galbatorix đã khiến cậu tới đó, là hắn đã vung tay gươm của cậu, Murtagh… ta không thể tha thứ, nhưng Galbatorix đã chết, và lòng báo thù của ta cũng chết theo. Con đường của các cậu đã luôn khó khăn từ khi sinh ra. Nhưng hôm nay các cậu đã cho thấy những bất hạnh không thể đánh gục mình. Các cậu đã chống lại Galbatorix khi điều đó chỉ mang lại đau đớn, và nhờ đó cho phép Eragon giết hắn. Hôm nay cậu và Thorn đã chứng tỏ bản thân xứng đáng với Shur’tugal, dù các cậu chưa bao giờ có được sự hướng dẫn đúng đắn. ĐIều đó thật … đáng ngưỡng mộ.
Murtagh cúi nhẹ đầu, Thorn nói, Xin cảm ơn người, Ebrithil, Eragon nghe được. Lời kính cẩn của Thorn ebrithil có vẻ khiến Murtagh giật mình, quay lại nhìn con rồng há miệng như thể định nói gì đó.
Rồi Umaroth cất tiếng. Chúng ta biết nhiều khó khăn các cậu phải đối mặt, Thorn và Murtagh à, vì chúng ta đã quan sát các cậu từ xa, kể cả khi đang dõi theo Eragon và Saphira. Có nhiều thứ chúng ta sẽ dạy các cậu khi đến lúc sẵn sàng, nhưng giờ đây, ta sẽ nói điều này: trong cuộc lãng du, tránh xa nấm mồ Anghelm, vị vua duy nhất của loài Urgal,Kulkarvek yên nghỉ. Tránh xa tàn tích của Vroengard và củaEl-harím. Cẩn thận những nơi sâu thẳm, và đừng đặt chân lên những nền đất đen giòn vỡ, nơi không khí đượm mùi lưu huỳnh, vì đó là nơi ma quỷ ẩn nấp. Cứ làm thế, trừ khi thật bất hạnh, các cậu sẽ không gặp phải nguy hiểm vượt quá khả năng của mình.
Murtagh và Thorn cảm ơn Umaroth, rồi Murtagh liếc nhìn về phía Urû’baen, “Bọn anh nên đi thôi.” Anh lại nhìn Eragon. “Giờ cậu có nhớ tên của cổ ngữ không, hay phép thuật của Galbatorix vẫn bao phủ tâm trí cậu?”
“Em có thể gần như nhớ được, nhưng …” Eragon lắc đầu chán nản.
Rồi Murtagh nói tên của các tên hai lần: đầu tiên để gạt bỏ bùa chú lãng quên Galbatorix đặt lên Eragon, rồi một lần nữa để Eragon và Saphir có thể nhớ cái tên. “Anh sẽ không nói cho ai khác nữa,” anh nói,” Nếu mỗi pháp sư đều biết tên cổ ngữ, ngôn ngữ này sẽ còn tệ hơn cả khi nó vô hại.”
Eragon gật đầu đồng ý.
Rồi Murtagh nắm tay Eragon, nó cũng nắm chặt cánh tay anh. Họ đứng nguyên trong giây lát, nhìn nhau chăm chú.
“Bảo trọng,” Eragon nói.
“Cậu nữa… Em trai.”
Eragon chần chừ, rồi gật đầu. “Anh trai.”
Murtagh kiểm tra đai trên yên Thorn rồi leo lên mình con rồng. Khi Thorn dang cánh chuẩn bị nhấc mình, Murtagh kêu lớn, “Nhớ đảm bảo Nasuada được bảo vệ an toàn. Galbatorix có rất nhiều tay sai, nhiều hơn lão nói với anh nhiều, và không phải tất cả bọn chúng đều bị rằng buộc với lão chỉ bằng phép thuật đâu. Chúng sẽ tìm cách trả thù cho chủ nhân đấy. Phải luôn luôn đề phòng. Có những kẻ còn nguy hiểm hơn Ra’zac nhiều!”
Rồi Murtagh giơ tay tạm biệt. Eragon cũng vậy, rồi Thorn nhảy ba bước khỏi biển tầm ma rồi phi lên trời, để lại dấu chân bự chảng trên nền đất mềm.
Con rồng đỏ lấp lánh lượn một vòng, hai vong, ba vòng, rồi quay mình về phương bắc, vỗ cánh chầm chậm, vững chãi.
Eragon đi về phía Saphira ở dưới chân đồi, cùng quan sát Thorn và Murtagh nhỏ dần như ngôi sao mờ trôi về đường chân trời.
Cùng cảm thấy nỗi buồn dâng lên trong lòng, Eragon leo lên mình Saphira, khởi hành từ ngọn đồi nhỏ về Urû’baen.
Người kế thừa Đế chế
Eragon chậm rãi leo lên từng bậc thang mòn vẹt trong tòa tháp màu lục. Trời đã về chiều, từ khung cửa sổ hình vòm, nó có thể thấy những dãy nhà đổ bóng xuống mặt trong thành Urû’baen, cũng như xa xa cánh đồng mịt mù, và sau đó bóng đen ngọn đồi nhô cao cuối đường chân trời.
Tòa tháp rất cao khiến Eragon mệt mỏi. Nó ước gì có thể để Saphira chở lên đỉnh. Sau một ngày dài nó chẳng thiết tha gì hơn là được ngồi bên Saphira uống một cốc trà nóng ngắm hoàng hôn. Nhưng như thường lệ luôn có việc phải làm.
Nó mới chỉ thấy Saphira hai lần từ khi quay lại thành phố sau cuộc chia tay với Murtagh và Thorn. Cô nàng dành phần lớn buổi chiều đó bắt hoặc giết đám binh lính tàn dư, rồi gom về doanh trại những người bỏ nhà cửa chạy khắp vùng quê chờ xem phiến đá có đổ xuống hay không.
May mà không, các tiên nhân giải thích với Eragon rằng bởi những thần chú được ếm vào trong đá trong hàng bao năm trời – khi Urû’baen còn có tên là Ilirea – rồi bởi mái nhô gần như thẳng đứng khiến nó có thể chịu chấn động từ vụ nổ mà không suy suyển gì đáng kể.
Tự ngọn đồi đã chịu đựng ảnh hưởng của vụ nổ, dù một lượng lớn đã thoát ra ngoài qua cổng tòa thành, hầu như tất cả mọi người trong thành Urû’baen đều phải được chữa trị chằng phép thuật, hoặc họ sẽ sớm đổ bệnh chết. Đến giờ rất nhiều người đã bị ốm. Cùng các tiên nhân, Eragon cật lực cứu được càng nhiều người càng tốt; năng lượng từ các Eldunarí giúp nó cứu phần lớn quân Varden và rất nhiều người dân trong thành phố.
Trong thời gian này, các tiên nhân và người lùn lập thành hàng rào chắn trước tòa thành để ngăn chặn dịch bệnh rò rỉ thêm. Trước đó, họ tìm kiếm những người sống sót: binh lính, người hầu, và hàng trăm tù nhân nằm trong hầm ngục bên dưới. Một kho báu khổng lồ nằm trong tòa thành, bao gồm thư viện đồ sộ của Galbatorix, được thu lại nhanh chóng sau đó. Đó không phải là một công việc dễ dàng gì. Tường của nhiều căn phòng đã sập hoàn toàn, vô số nhưng căn phòng khác tuy vẫn đứng được, nhưng hư hại đến mức không ai dám lại gần. Thêm nữa, cần pháp thuật để chặn những chất độc đã thấm vào trong không khí, đá và những những vật thể khắp các hang hốc tòa thành. Rồi thêm những bùa chú cần để gột sạch những thứ họ mang ra ngoài.
Một khi tòa thành đã bị phong tỏa, các tiên nhân sẽ thanh tẩy thành phố và những vùng phụ cận khỏi tàn dư nguy hại vẫn còn đọng lại, để người ta có thể tiếp tục an toàn sống ở những nơi đó. Eragon biết nó phải giúp làm những chuyện đó nữa.
Trước khi chữa trị và đặt lưới phòng ngự bảo vệ an toàn mọi người xunh quanh Urû’baen, nó mất cả tiếng sử dụng tên thật của cổ ngữ để lột bỏ vô số bùa chú Galbatorix trói buộc trên những ngôi nhà và người dân trong thành phố. Một số bùa ếm có vẻ vô hại, có khi còn có ích – như một bùa có vẻ chỉ để giữ bản lề cánh cửa khỏi long, rút năng lượng từ một tinh thể cỡ quả trứng đặt dưới cửa – nhưng Eragon không dám bỏ sót bất kì phép thuật nào của nhà vua, không kể chúng vô hại thế nào đi nữa. Đặc biệt là những bùa ếm lên những kẽ dưới quyền Galbatorix. Trong số họ, phổ biến nhất là lời thề trung thành, nhưng cũng vài người có lưới phòng hộ, bùa ếm trao sức mạnh phi thường, và còn những thần chú bí ẩn khác nữa.
Khi Eragon giải phóng các quý tộc và thường dân khỏi ràng buộc, thi thoảng nó cảm thấy thống khổ, như thể đang tước khỏi họ thứ gì đó quý giá.
Khủng hoảng xảy ra khi nó gỡ bỏ không chế Galbatorix ếm lên các Eldunarí bị giam cầm. Lũ rồng ngay lập tức bị kích động, tấn công trí óc của mọi người trong thành phố không phân biệt bạn thù. Lúc đó không khí khiếp đảm bao lan tỏa khắp Urû’baen, khiến tất cả mọi người, kể cả các tiên nhân cũng phải thu mình, tái nhợt vì sợ hãi.
Rồi Blödhgarm và mười pháp sư lập thành một đoàn bảo vộ đưa những hộp kim loại chứa Eldunarí lên một đôi ngựa mang xa khỏi Urû’baen nơi ý thức của lũ rồng không còn gây hiệu ứng ghê người nữa. Glaedr cùng vài Eldunarí từ Vroengard khăng khăng được hộ tống những con rồng điên. Đó là lần thứ hai Eragon thấy Saphira từ khi trở về, khi nó gỡ bỏ bùa chú dấu Umaroth và những con rồng khác, để năm Eldunarí tách ra đưa cho Blödhgarm bảo quản. Glaedr cùng năm con rồng là những luồn tâm trí duy nhất có thể xoa dịu, giao tiếp với lúc rồng bị Galbatorix hành hạ quá lâu. Eragon không chắc lắm, nhưng nó hy vọng họ nói phải.
Khi các tiên nhân và Eldunarí lên đường rời khỏi thành phố, Arya liên lạc với nó, phát đi một câu hỏi từ bên ngoài cánh cổng đổ nát, nơi cô đang họp bàn với những vị tướng trong quân đội tiên nhân. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi tiếp xúc, nó cảm nhận được sự u buồn vì sự hy sinh của Islanzadí, cũng như niềm hối hận và giận dữ cuộn chảy bên dưới nỗi đau thương, nó thấy cảm xúc đe dọa lấn át lí trí, cùng cuộc đấu tranh chật vật kiềm chế nó trong cô. Nó cố an ủi, nhưng có vẻ không thấm tháp gì so với mất mát cô phải trải qua.
Từ khi Murtagh ra đi đến giờ, cảm giác trống rỗng lúc nào cũng bao lấy Eragon. Nó đáng ra phải cảm thấy vui mừng vì đã giết được Galbatorix, và dù nó cũng mừng – và nó đã vui mừng – khi nhà vua không còn nữa, giờ đây nó không biết nó phải làm gì. Nó đã đạt được mục đích. Nó đã leo lên đỉnh núi dường như không thể leo được. Giờ nó không có mục đích nào dẫn đạo, thúc đẩy nữa, nó cảm thấy thiếu thốn. Nó và Saphira sẽ làm gì trong đời bây giờ? Điều gì còn có thể có ý nghĩa? Nó biết theo thời gian, nó và Saphira sẽ tạo dựng nên thế hệ Kỵ Sỹ và rồng tiếp theo, nhưng viễn cảnh ấy quá xa vời để có thể là sự thực.
Nó cảm thấy nao nao ức chế khi quay lại những câu hỏi ấy. Nó cố hướng suy nghĩ đi, nhưng chúng cứ chờn vờn quanh tâm trí, rồi cảm giác trống rống lại dai dẳng.
Có lẽ Murtagh và Thorn đã đúng.
Cầu thang tòa tháp dường như dài vô tận. Nó bước lên, vòng rồi vòng, cho đến khi người dưới phố chỉ nhỏ như kiến, bắp chân và mắt cá của nó bỏng rát vì lặp đi lặp lại một chuyển động. Nó thấy một tổ chim nông choẹt xây dưới cánh cửa rổ hẹp, bên dưới, nó thấy vài bộ xương nhỏ xíu: những con chim đại bàng hoặc ưng non rời tổ.
Cuối cùng nó lên tới đỉnh cầu thang xoắn – một cánh cửa vòm lớn xám xịt cũ kĩ – nó khựng lại thu vén suy nghĩ và cố thở chậm. Rồi bước vài bậc thang cuối cùng, nhấc then cửa lên, đẩy tới bước vào một căn phòng rộng trên đỉnh tháp canh của tiên nhân.
Có sáu người đang chờ đợi nó, cùng Saphira: Arya và vị tiên nhân tóc bạc tướng Däthedr, vua Orrin, Nasuada, vua Orik, và vua mèo ma, Grimrr Nửa vuốt. Họ đang đứng – trừ Orrin đang ngồi – thành một vòng tròn rộng rãi, Saphira nằm ngược phía cầu thang, trước cánh cửa sổ hướng về phía Nam cho phép cô nàng hạ cánh trong tòa tháp. Ánh sáng từ mặt trời đang lặn chiếu ngang qua căn phòng, soi rọi vết chạm trổ của tiên nhân trên những bức tường và những viên đá màu rối rắm trên sàn nhà nứt nẻ.
Trừ Saphira và Grimrr, ai cũng có vẻ tỏ ra căng thẳng và không thoải mái. Từ những vệt hằn sâu trên đôi mắt và chiếc cổ ngăm ngăm của Arya, Eragon có thể nhận ra nỗi đau buồn lẫn rối ren trong lòng cô. Nó ước có thể làm gì đó để xoa dịu nỗi đau ấy. Orrin ngồi trên một chiếc ghế sâu lòng, tay phải cầm cốc rượu tay trái đặt lên bộ ngực băng bó. Ông di chuyển cực kì cẩn thận, như thể sợ tự làm mình đau, nhưng đôi mắt sáng người và trong vắt, nên Eragon đoán vết thương chứ không phải rượu làm ông thận trọng như vậy. Däthedr đang vỗ ngón tay vào chuôi kiếm, trong khi Ork đứng đặt một tay lên cán cây Volund – cây búa dựng thẳng trướng người ông – nhìn chăm chú vào bộ râu. Nasuada khoanh tay như thể bị lạnh. Bên phải cô, Grimrrr Nửa vuốt nhìn trân trối lên trời, có vẻ lơ đãng tất cả mọi người.
Khi Eragon mở cửa, tất cả đều nhìn nó, Orik cười tươi. “Eragon!” ông la lên, rồi vác cây Volund lên vai, bước tới vòng tay ôm lấy nó. “Anh biết em có thể giết lão mà! Làm tốt lắm! Đêm nay ta sẽ ăn mừng, nhá! Để những ngọn lửa cháy rực, giọng nói chúng ta vang lên tới khi thiên đường cũng phải vọng lại tiếng vang của bữa tiệc đêm nay.”
Eragon mỉm cười gật đàu, Orik vỗ vỗ cánh tay nó, rồi trở về vị trí còn Eragon đi xuyên căn phòng tới đứng cạnh Saphira.
Anh nhỏ, cô nàng quẹt miệng vào vai nó.
Nó bước tới chạm vào bên má đầy vảy của cô nàng, tận hưởng cảm giác dễ chịu khi được gần Saphira. Rồi nó phóng tâm thức tới những Eldunarí cô nàng mang theo. Cũng như nó, họ đều mệt mỏi vì những việc trong nhgay, nó biết họ muốn quan sát nghe ngóng hơn là tham gia vào cuộc đàm luận sắp bắt đầu.
Các Eldunarí tỏ ý chào mừng nó, Umaroth nói, Eragon, rồi im lặng.
Trong phòng không ai có vẻ sẵn sàng mở lời. Từ thành phố phía dưới, Roran nghe thấy tiếng ngựa hí. Từ phía tòa thành vang lên tiếng khóa, tiếng đục vọng lại. Vua Orrin cựa mình không thoải mái trên ghế, nốc sạch cốc rược. Grimrr cào nhẹ cái tai nhọn, khịt mũi như thể đang kiểm tra không khí.
Cuối cùng, Däthedr phá vỡ im lặng. “Chúng ta có một quyết định cần phải ra,” ông nói.
“Cái đó ai cũng biết rồi, tiên nhân,” Orik ồm ồm.
“Cứ để ông ta nói,” Orrin ra hiệu bằng chiếc cốc nạm ngọc. “Ta muốn nghe suy nghĩ của ông ta xem ông ta muốn chúng ta tiếp tục thế nào.” Khuôn mặt ông nở nụ cười chua chát, hơi chế giễu. Ông nghiêng đầu về phía Däthedr như thể cho phép vị tiên nhân được nói.
Däthedr gật nhẹ đầu đáp trả. Dù có bị xúc phạm hay không, vị tiên nhân cũng không hề phản ứng lối nói của nhà vua. “Không ai che giấu rằng Galbatorix đã chết. Kể cả lúc này, tin tức về chiến lắng của chúng ta vẫn đang lan tỏa khắp các nơi. Đến cuối tuần, phần lớn Alagaësia sẽ biết về cái chết của Galbatorix.”
“Như chuyện phải thế,” Nasuada trầm ngâm. Cô đã thay chiếc áo choàng gã coi tù mặc cho bằng một bộ đồ đỏ đen, lộ rõ hơn sự sụt cân của cô trong những ngày bị bắt, vì bộ đồ trễ qua vai cô và lộ ra bờ eo tóp lại. Nhưng dù trông yếu ớt, có vẻ cô đã lấy lại phần nào sức khỏe. Khi Eragon và Saphira trở lại tòa thành, Nasuada đã gần như suy sụp, kiệt quệ cả về thể chất lẫn tinh thần. Khi Jörmundur trông thấy cô, ông đưa cô về doanh trại và để cô được cách ly đến hết ngày. Eragon đã không thể xin ý kiến cố cho đến khi gặp trong cuộc họp, nên nó không chắc ý kiến của cô về những chuyện họ đang bàn bạc. Nếu cần thiết, nó sẽ trực tiếp liên lạc bằng ý nghĩ, nhưng hy vọng có thể tránh được, nó không muốn xâm phạm sự riêng tư của cô, sau những gì cô đã trải qua.
“Như chuyện phải thế,” giọng Däthedr mạnh mẽ, rõ ràng, vang vọng lên trần nhà hình vòm cao vút. “Tuy nhiên, khi dân chúng biết Galbatorix đã mất, câu hỏi đầu tiên sẽ là ai nắm giữ vị trí của hắn.” Däthedr nhìn quanh. “Chúng ta phải cho họ câu trả lời trước khi bất ổn lan ra. Nữ hoàng của chúng tôi đã mất. Vua Orrin, ông bị thương. Lời đồn có chân đấy, tôi chắc chắn. Giờ quan trọng là phải dập tắt chúng trước khi gây hại. Chậm trễ là thảm họa. Chúng ta không thể để mỗi lãnh chúa với một nhúm quân tin hắn có thể trở thành quân vương trong vương quốc nhỏ xíu của hắn được. Nếu chuyện đó xảy ra, Đế chế sẽ tan rã thành hàng trăm vương quốc nhỏ. Không ai muốn chuyện đó xảy ra hết. Một người kế nhiệm phải được chọn ra – chọn ra và lên ngôi, dù có khó khăn đến chừng nào đi nữa.
Grimrr nhìn thẳng, “Không thể dẫn đầu bầy đàn mà yếu đuối được.”
Vua Orrin cười nhạt. “Thế các người muốn đóng vai trò gì nào, Arya, Tướng Däthedr? Hay ông, vua Orik? Hay ông, vua Nửa Vuốt? Chúng tôi rất vui mừng vì tình bạn và sự giúp đỡ của các người, nhưng đây là chuyện để con người quyết định, không phải các người. Chúng tôi tự cai quản, và sẽ không để người khác chọn vua cho mình.”
Eragon ngạc nhiên thấy Nasuada xiết nhẹ đôi tay đang khoanh lại. “Tôi đồng ý. Đây là chuyện chúng tôi phải tự sắp xếp.” Cô nhìn quanh căn phòng tới Arya và Däthedr. “Dĩ nhiên các bạn hiểu. Các bạn sẽ không cho phép chúng tôi bảo nên chọn ai trở thành vua hoặc nữ hoàng mới.” Cô nhìn Orik. “Và các bộ tộc cũng sẽ không để chúng tôi lựa chọn anh làm người kế tục Hrothgar đâu.”
“Không,” Orik nói. “Họ sẽ không chấp nhận.”
“Quyết định thì, dĩ nhiên, là của các bạn,” Däthedr nói. “Chúng tôi không muốn chỉ dạy các bạn nên hay không nên chuyện gì cả. Tuy nhiên, là đồng minh và bạn bè các bạn, chúng tôi cũng có quyền đưa ra lời khuyên cho vấn đề lớn lao như thế này, đặc biệt khi nó sẽ ảnh hưởng tới tất cả chúng ta chứ? Dù các bạn lựa chọn thế nào thì cũng sẽ tác động sâu rộng, và các bạn phải thật thận trọng thấu hiểu những tác động ấy trước khi đưa ra lựa chọn.”
Eragon hiểu khá rõ. Đó là một lời đe dọa. Däthedr đang nói rằng nếu họ đưa ra quyết định mà các tiên nhân không ưng ý, rồi sẽ có hậu quả không tốt đẹp. Eragon cố kiềm chế không quắc mắt. Lập trường của tiên nhân có thể đoán trước được. Rủi ro khá lớn, sai lầm lúc này có thể để lại hâu quả hàng thập kỉ sau.
“Cái đó … có vẻ hợp lý,” Nasuada liếc nhìn vua Orrin.
Orrin nhìn chằm chằm chiếc cốc trong tay vừa xoay nhẹ nó, làm chất lỏng bên trong sóng sánh. “Chỉ là làm sao các vị cho chúng tôi lời khuyên để chọn lựa vậy, Tướng Däthedr? Nói xem, tôi tò mò lắm.”
Vị tiên nhân khựng lại. Trong ánh chiều tà ấm áp, mái tóc bạn của ông có vẻ phát ra vòng hào quang quanh đầu. “Dù ai đeo vương miện cũng phải có kĩ năng và kinh nhiệm cần thiết để cai trị hiệu quả ngay từ đầu. Không có thời gian để hướng dẫn ai đó cách lãnh đạo, cũng như chúng ta không thể chấp nhận sai lầm từ một kẻ học việc. Thêm nữa, người đó cần phải có đạo đức tốt để tiếp nhận vị trí cao cả, phải là lựa chọn chấp nhận được từ phía các chiến binh của Varden, và trong chừng mực nào đó, người dân của cả Đế chế; và nếu có thể, người đó phải khiến chúng tôi và các đồng minh khác cảm thấy ổn thỏa.”
“Ông giới hạn lựa chọn của chúng tôi khá nhiều với mớ yêu cầu vừa rồi đấy,” vua Orrin nói.
“Chúng chỉ đơn là yêu cầu của một nhà chính trị tốt. Hay ngài có cách nhìn khác?”
“Tôi thấy vài lựa chọn ông bỏ qua hoặc loại trừ, có lẽ ông thấy chúng không được vừa ý lắm. Nhưng không sao. Tiếp tục đi.”
Đôi mắt Däthedr nheo lại, nhưng giọng nói vẫn trôi chảy như không. “Lựa chọn hiển nhiên nhất – và là người mà dân Đế chế chắc chắn trông mong - là người đã thực sự giết Galbatorix. Đó là, Eragon.”
Không khí trong căn phòng trở nên giòn tan như thể làm bởi thủy tinh.
Mọi người đều nhìn về phía Eragon, kể cả Saphira và ma mèo, nó cũng thấy Umarroth và các Eldunarí đang quan sát kĩ lưỡng. Nó nhìn lại những người khác, không sợ hãi lẫn giận dữ bởi cái nhìn chằm chằm của họ. Nó dò xét khuôn mặt Nasuada tìm gợi ý về phản ứng của cô, nhưng không có gì ngoài biểu tình nghiêm túc, nó không nhận ra cô đang nghĩ hay cảm thây gì hết.
Nó khó chịu, nhận ra Däthedr nói chính xác: nó có thể trở thành vua.
Trong khoảng khắc, Eragon cho phép nó tận hưởng khả năng ấy. Sẽ không ai có thể cản nó nắm ngai vàng, không ai trừ Elva hay có lẽ Murtagh – nhưng giờ nó đã biết cách chống lại khả năng của Elva, còn Murtagh cũng không còn ở đây để thách thức nó. Nó có thể cảm thấy từ tâm trí Saphira sẽ không chống lại nó dù chọn lựa thế nào. Và dù không đọc được biểu tình của Nasuada, nó cũng có một cảm giác kì lạ là lần đầu tiên, cô sẵn sàng bước sang một bên để nó nắm quyền lãnh đạo.
Anh muốn điều gì? Sasphira hỏi.
Eragon suy nghĩ về chuyện đó. Anh muốn … có ích. Nhưng quyền lực và chi phối người khác – những thứ Galbatorix tìm kiếm – chúng không hấp dẫn anh lắm. Dù sao, chúng ta cũng có những trách nhiệm khác.
Chuyển sự chú ý về những người đang quan sát mình, nó nói, “Không, như thế không đúng đắn.”
Vua Orrin càu nhàu, uống một hớp rượu, trong khí Aray, Däthedr và Nasuada có vẻ giãn ra, tuy nhiên chỉ một chút nếu có. Cũng như họ, các Eldunarí có vẻ mừng vì quyết định của nó, dù họ không nhận xét gì về lời nó nói.
“Tôi mừng vì cậu nói thế,” Däthedr nói. “Không nghi ngờ gì cậu sẽ là một người cai trị tốt, nhưng tôi không nghĩ sẽ tốt cho giống loài của cậu, cũng như những loài khác trên đất Alagaësia khi một Kỵ Sỹ Rồng khác nắm ngôi vị.”
Rồi Arya ra hiệu cho Däthedr. Vị tiên nhân tóc bạc lui lại một chút, Arya nói, “Roran là một lựa chọn hiển nhiên khác.”
“Roran!” Eragon hoài nghi.
Arya nhìn nó bằng ánh mắt trang trọng – và hơn nữa – sáng rỡ và sắc nhọn, như viên ngọc lục bảo vậy. “Vì chiến công của anh ta mà Varden chiếm được Urû’baen. Anh ta là anh hùng của Aroughs và rất nhiều trận chiến khác. Quân Varden và toàn Đế chế sẽ đi theo anh mà không do dự.”
“Nhưng anh ta thô lỗ, quá tự tin, và không có kinh nghiệm cần thiết,” Orrin nói, rồi liếc sang Eragon nét mặt tội lỗi. “Tuy nhiên anh ta là một chiến binh tuyệt vời.”
Đôi mắt Arya nháy lên, như con cú. “Tôi tin ngài sẽ thấy sự thô lô ấy còn tùy vào người anh ta đối mặt … thưa Đức Vua. Tuy nhiên, ngài nói chính xác; Roran thiếu kinh nghiệm cần thiết. Và còn lại hai lựa chọn: cô, Nasuada; và ngài, vua Orrin.
Vua Orrin cựa mình trên chiến ghế sâu lòng, lông mày nhăn tít lại, trong khi biểu tình Nasuada vẫn không thay đổi.
“Tôi cho rằng,” Orrin nói với Nasuada, “rằng công nương muốn đòi quyền lợi hả.”
Cô nhấc cằm. “Tôi muốn.” Giọng nói cô vẫn bình tĩnh và êm ái.
“Thế thì chúng ta đi vào ngõ cụt rồi, vì tôi cũng thế. Và tôi sẽ không lui bước đâu.” Orrin xoay xoay gốc chiếc cốc giữa hai ngón tay. “Cách duy nhất tôi thấy có thể giải quyết chuyện này mà không đổ máu là công nương rút lại lời đòi hỏi. Nếu vẫn tiếp tục theo đuổi, cuối cùng công nương sẽ phá hủy tất cả chúng gì đã giành được hôm nay, mà công nương sẽ không thể trách bất cứ ai trừ chính mình cho tình cảnh hỗn loạn đó.”
“Ngài sẽ đối đầu với các đồng minh của chính mình chẳng để làm gì ngoài đẩy Nasuada khỏi ngai vàng ư?” Arya hỏi. Vua Orrin có thể không nhận ra, nhưng Eragon thấy thái độ lạnh nhạt khó chịu ấy có nghĩ cô sẵn sàng chém giết ngay trong lúc đó.
“Không,” Orrin đáp. “Ta sẽ đối đầu với Varden để giành ngai vàng. Có khác nhau nhiều đấy.”
“Vì sao?” Nasuada hỏi.
“Vì sao à?” câu hỏi có vẻ làm Orrin cáu tiết. Nhân dân tôi đã che chở, cho ăn và trang bị cho Varden. Họ đã chiến đấu và ngã xuống bên những chiến binh của công nương, và là một đất nước, chúng tôi mạo hiểm hơn xa với Varden. Varden không có quê hương; nếu Galbatorix đánh bại Eragon và lũ rồng, công nương cho thể chạy trốn, ẩn nập. Nhưng chúng tôi không có nơi nào để về ngoài Surda. Galbatorix có thể đè bẹp chúng tôi như kiến cỏ, rồi sẽ tàn sát khắp vùng. Chúng tôi đặt cược mọi thứ - gia đình, nhà cửa, tài sản, tự do của mình – để cuối cùng, sau mọi hy sinh nỗ lực, công nương thực sự tin rằng chính tôi sẽ thỏa mãn trở về đồng ruộng quê nhà mà không có phần thưởng nào ngoài cái vỗ đầu tán thưởng và lời cảm tạ của cô sao? Hừm, lẽ ra ta phải rút sớm mới đúng. Chúng tôi đã tưới đẫm mặt đất từ Cánh Đồng Cháy tới đây bằng máu của mình, giờ là lúc đòi quyền đền bù.” Ông nắm chặt tay. “Giờ chúng tôi chỉ được hưởng rác rưởi thôi sao.”
Những lời của Orrin không làm Nasuada bối rối, trái lại cô có vẻ thấu hiểu, thậm chí đồng cảm.
Rõ là cô ấy sẽ không cho lão chết toi sủa om sòm ấy cái lão muốn, Saphira nói.
Cứ chờ xem đã, Eragon nói. Cô ấy chưa bao giờ làm chúng ta lạc hướng cả.
Arya nói, “tôi hy vọng hai vị có thể đi đến một thỏa thuận hòa giải, và …”
“Dĩ nhiên,” vua Orrin nói. “Ta cũng hy vọng thế đấy.” Ông nhìn chằm chằm Nasuada. “Nhưng ta sợ rằng quyết tâm độc đoán của Nasuada sẽ không cho phép công nương nhận ra rằng cuối cùng cô ấy sẽ phải phục tùng.”
Arya tiếp tục: “- và như Däthedr nói, chúng tôi sẽ không can thiệp vào việc chọn lựa người cai trị của giống nòi các bạn.”
“Ta nhớ rõ,” vua Orrin cười tự mãn.
“Tuy nhiên,” Arya nói, “là đồng minh thề nguyện của Varden, tôi xin nhắc ngài là chúng tôi sẽ coi mọi công kích vào họ cũng như công kích chính mình, và chúng tôi sẽ phản ứng lại.”
Khuôn mặt Orrin nhăn lại, như thể cắn phải một quả chanh.
“Cũng tương tự với người lùn vậy,” giọng Ork như hai viên đá nghiền vào nhau dưới vang lên trong lòng đất.
Grimrr Nửa vuốt nâng bàn tay sứt sẹo lên trước mặt, xem xét từng chiếc móng-như-vuốt trên ba ngón tay còn sót lại. “Chúng tôi không quan tâm ai trở thành vua hay nữ hoàng, cho đến khi vẫn còn có một vị trí bên cạnh ngai vàng như đã hứa hẹn. Dù sao, Nasuada là người đã đàm phán với chúng tôi, và Nasuada cũng sẽ được chúng tôi tiếp tục ủng hộ cho đến khi không còn là người đầu đàn Varden nữa.”
“À há!” vua Orrin la lên, rướn mình tới, tay đặt trên đầu gối. “Nhưng công nương không phải là lãnh đạo Varden. Không phải nữa. Là Eragon!”
Mọi cặp mắt dồn về phía Eragon. Nó hơi nhăn nhó nói, “Tôi tưởng đã rõ ràng là tôi đã nhường thẩm quyền lại cho Nasuada ngay khi công nương tự do rồi chứ. Nếu không, giờ sẽ không còn ai nhầm lẫn nữa: Nasuada là lãnh đạo Varden, không phải tôi. Và tôi tin công nương nên là người thừa hưởng ngai vàng.”
“Cậu sẽ nói vậy mà,” Orrin trề môi chế nhạo.“Cậu đã thề trung thành với cô ấy. Dĩ nhiên cậu tin công nương nên thừa hưởng ngai vàng rồi. Cậu chả hơn gì so với một tên đầy tớ trung thành đứng lên bảo vệ chủ nhận, ý kiến của cậu không có trọng lượng hơn ý kiến của bất kì tên gia nhân nào của ta.”
“Không!” Eragon nói. “Thế thì ông sai rồi. Nếu tôi nghĩ ông hay bất kì ai khác sẽ là người cai trị tốt hơn, tôi sẽ nói thế! Đúng, tôi đã thề với Nasuada, nhưng điều đó không ngăn tôi nói sự thật như tôi thấy.”
“Có lẽ không, nhưng lòng trung thành của cậu với cô ấy vẫn làm lu mờ lý trí.”
“Kể cả như lòng trung thành với Surda làm lu mờ ông vậy,” Orik nói.
Vua Orrin quắc mắt. “Tại sao các người luôn chống lại ta?” Ông nhìn từ Eragon sang Arya tới Orik, “Tại sao thế, trong mọi tranh chấp, các người về phe với cô ta?” Rượu tràn ra từ mép cốc khi ông chỉ về phía Nasuada. “Tao sao cô ta có được sự tôn trọng của các người, mà không phải là ta và nhân dân Surda? Tại sao Nasuada và Varden lại luôn có đặc ân của các người, rồi trước cô ta, là Ajahad. Nếu cha ta còn sống …”
“Nếu cha ngài, vua Larkin, còn sống,” Arya nói, “ông ấy sẽ không ngồi đây rên rỉ những người khác nhìn ông như thế nào, mà sẽ làm gì đó có ích.”
“Bình tĩnh nào,” Nasuada can ngăn trước khi Orrin thốt lên phản pháo. “Không cần phải phỉ báng nhau ở đây… Orrin, băn khoăn của ngài rất hợp lý. Ngài nói đúng: dân Surda đã cống hiến rất nhiều. Tôi xin thừa nhận rằng nều không có sự giúp đỡ của các vị, chúng ta sẽ không bao giờ có khả năng tấn công Đế chế như đã làm, và các vị xứng đáng được đèn bù vì những gì đã mạo hiểm, bỏ ra, và mất mát trong cuộc chiến này.”
Vua Orrin gật đầu, tỏ ra thỏa mãn. “Vậy ra cô chịu nhường bước rồi à?
“Không,” Nasuada vẫn bình tĩnh. “Cái đó thì không. Nhưng tôi có một đề nghị thay thế, sẽ khiến toàn bộ chúng ta mãn nguyện.” Orrin có vẻ không thỏa mãn, nhưng không cắt ngang. “Đề nghị của tôi như sau: một phần rất lớn đất đai chúng ta đã chiếm được sẽ thuộc về Surda. Toàn bộ Arough, Feinster và Melian sẽ là của ngài, cũng như những hòn đạo ở phía Nam, cho tới khi chúng thuộc về chúng ta. Với sự sát nhập này diện tích Surda sẽ tăng lên gần gấp đôi.”
“Và đổi lại?” Vua Orrin nhướng mày.
“Đổi lại, ngài sẽ thề trung thành với ngai vàng ở Urû’baen này và bất kì ai giữ nó.”
Orrin xoắn miệng. “Công nương sẽ tự lập làm Hoàng Hậu của cả vùng đất này à.”
“Hai vương quốc – Đế chế và Surda – phải được hợp nhất để tránh sự thù địch trong tương lại. Surda sẽ thuộc quyền lãnh đọa của ngài tùy ý, chỉ trừ một điều: các pháp sư của cả hai đất nước phải tuân theo một luật lệ nhất định, chính là những điều chúng ta sẽ quyết định vào một ngày tới. Cùng với những luật lệ đó, Surda sẽ phải góp phần phòng thủ lãnh thổ chung. Nếu một trong hai bị tấn công, quốc gia còn lại sẽ trợ giúp bằng sức người và sức của.”
Vua Orrin đặt cốc rượu lên vạt áo, nhìn chăm chú xuống nó. “Tôi xin hỏi lại: vì sao là cô chứ không phải tôi ngồi trên ngai vàng? Dòng họ tôi đã trị vì Surda từ khi Công nương Marelda chiến thắng Trận Cithrí và xác lập nên cả Surda lẫn Dòng họ Langfeld, mà chúng tôi có thể truy nguồn gốc đến tận Thanebrand người Trao Nhẫn nữa. Chúng tôi đã chiến đấu với Đế chế suốt cả thế kỉ. vàng, vũ khí và giáp trụ của chúng tôi cho phép Varden tồn tại ngay từ trong trứng nước và duy trì các người suốt bao năm qua. Không có chúng tôi, các người không thể chống cự Galbatorix. Những người lùn không thể cho các người những gì cần thiết, cả tiên nhân nữa, họ ở quá xa. Nên tôi hỏi lại, tại sao phần thưởng phải thuộc về cô, Nasuada, mà không phải tôi?”
“Bởi,” Nasuada nói, “tôi tin mình có thể làm một nữ hoàng tốt. và bởi – với mọi điều tôi đã làm khi lãnh đạo Varden – tôi tin đó là điều tốt nhất dành cho nhân dân chúng ta và toàn thể Alagaësia.”
“Công nương có vẻ hơi đề cao mình quá thì phải.”
“Khiêm tốn nhầm chỗ không bao giờ đáng khâm phục hết, ít nhất đối với những người lãnh đạo. Có phải tôi đã thể hiện đầy đủ năng lực lãnh đạo hay không? Nếu không phải là tôi, quân Varden vẫn rúm ró trong lòng Farthen Dûr, chờ đợi dấu hiệu từ trên trời rơi xuống để xem bao giờ là thời điểm tốt tấn công Galbatorix. Chính tôi đã dẫn dắt Varden từ Farthen Dûr tới Surdar, chính tôi xây đắp họ thành một đội quân hùng mạnh. Với sự giúp đỡ của ngài, đúng vậy, nhưng tôi là người dẫn dắt họ, và tôi là người bảo đảm sự giúp đỡ của người lùn, tiên nhân và Urgal. Ngài có thể làm nhiều như thế không? Ai trị vì ở Urû’baen sẽ phải đối đãi với mọi giống loài trên mảnh đất này, không phải chỉ của mình. Một lần nữa, chuyện đó tôi đã làm được, và tôi có thể làm được.” Rồi Nasuada mềm mỏng, nhưng nét mặt vẫn mạnh mẽ như trước. “Orrin, vì sao ngài muốn ngai vàng? Nó có khiến ngài hạnh phúc hơn không?”
“Đây không pahri là vấn đề hạnh phúc,” ông gầm lên,
“Nhưng một phần thì có. Ngài có sẵn sàng quản lý toàn bộ Đế chế bên cạnh Surda không? Bất kì ai nắm ngai vàng sẽ phải thực hiện nhiệm vụ khổng lồ. Có cả một vương quốc phải tái thiết: đàm phán hiệp ước, chiếm các thành phố, khuất phục các quý tộc và pháp sư. Thậm chí phải mất cả đời để bắt đầu khôi phục những tổn thất Galbatorix gây ra. Đó là trách nhiệm ngài sẵn sàng gánh vác chứ? Với tôi có vẻ ngài thích cuộc sống như trước hơn.” Cô nhìn xuống cốc rượu, rồi chuyển ánh mắt về khuôn mặt Orrin. “Nếu ngài chấp nhận đề nghị của ta, ngài có thể trở về với Aberon và những thí nghiệm triết học tự nhiên của mình. Không phải ngài muốn vậy sao? Surda sẽ rộng hơn, giàu có hơn, mà ngài thì sẽ tự do theo đuổi sở thích của mình.”
“Chúng ta không thể luôn làm theo những gì mình thích. Đôi khi chúng ta phải làm điều đúng đắn, không phải điều mình muốn,” vua Orrin nói.
“Đúng, nhưng …”
“Bên cạnh đó, nếu ta làm vua tại Urû’baen này, ta vẫn có thể theo đuổi sở thích dễ dàng như ở Aberon vậy.” Nasuada cau mày, nhưng trước khi cô kịp nói, Orrin gạt đi: “Cô không hiểu …” ông cau có, uống thêm một hớp rượu.
Thế thì giải thích cho chúng ta đi, Saphira nói, ý nghĩ cô nàng sặc mùi thiếu kiên nhẫn.
Orrin khịt mũi, nốc cạn cốc rượu rồi quăng nó xuống cầu thang, cái cốc vàng lõm vào, bắn những viên ngọc khảm trên nó ra xoay mòng mòng trên sàn. “Ta không thể,” ông càu nhàu, “mà cũng không có ý thử.” Ông lướt mắt khắp căn phòng, “Không ai trong càng người hiểu đâu. Càng người quá buộc mình vào sự quan trọng của bản thân để thấu suốt. Làm sao có thể, khi các người chưa bao giờ trải nghiệm những gì ta đã từng?” Ông ngồi phịch xuống ghế, ánh mắt như than chì bên dưới cặp lông mày nhô cao. Ông nói với Nasuada, “Công nương vẫn quyết tâm à? Cô sẽ không rút lại đòi hỏi của mình phải không?”
Cô lắc đầu.
“Và nếu ta chọn tiếp tục theo đuổi đòi hỏi của ta thì sao?”
“Thì chúng ta sẽ có tranh chấp.”
“Rồi ba người sẽ về phe với cô ta hả?” Orrin quay sang Arya, Orik và Grimrr.
“Nếu Varden bị tấn cộng, chúng tôi sẽ chiến đấu cạnh họ,” Orik nói.
“Kể cả chúng tôi nữa,” Arya nói.
Vua Orrin cười nhe răng. “vậy các người không nghĩ là đang bảo chúng ta nên chọn ai làm người cai trị, đúng không?”
“Dĩ nhiên là không,” Orik nói, hàm răng trắng lấp lánh nguy hiểm trong bộ râu.
“Dĩ nhiên là không rồi.” Orik nhìn Nasuada. “Ta muốn Belatona, cùng với những thành phố công nương đã nhắc tới.”
Nasuada nghĩ một chốc. “Ngài đã sẵn có hai thành phố cảng là Feinster và Arough, ba nếu tính tới Eoam ở đảo Beirland. Ta sẽ cho ngài Furnost thay vào đó, và ngài sẽ có cả vùng hồ Tüdosten, như tôi có toàn bộ hồ Leona.”
“Leona có giá trị hơn Tüdosten, vì nó cho phép tới những dãy núi và bờ biển biển bắc,” Orrin chỉ ra.
“Đúng. Nhưng ngài đã sẵn có đường tới hồ Leona từ Dauth và sông Jiet rồi.”
Vua Orrin im lặng nhìn trân trối sàn nhà giữa phòng. Đỉnh mặt trời đang lặn dần xuống khỏi đường chân trời, chỉ còn rọi sáng vài đám mây lơ thơ. Bầu trời tối dần, vài ngôi sao đã nhấp nháy: ánh sáng lập lòe trong khoảng tím vô biên. Một cơn gió nhẹ nổi lên từ phía nam thổi vào mạn tháp. Eragon nghe tiếng cây tầm ma xào xạc bên kẽ lã.
Eragon nghĩ càng đợi lâu thì có vẻ Orrin sẽ từ chối đề nghị của Nasuada, hoặc ông sẽ ngồi đó im lặng cả buổi đêm.
Rồi nhà vua nhấc mình nhìn lên. “Tốt lắm,” ông nhỏ giọng. “Đến khi nào công nương vẫn tôn trọng giao ước của chúng ta, ta sẽ không thách thức công nương ngai vàng của Galbatorix… thưa Nữ Hoàng.”
Eragon rùng mình khi nó nghe Orrin thốt lên những lời đó.
Nét mặt vẫn ưu phiền, Nasuada tiến lên đứng giữa căn phòng. Rồi Orik đập đuôi cán Volund xuống sàn tuyên bố, “Nhà vua đã chết, Nữ hoàng muôn năm!”
“Nhà vua đã chết, Nữ hoàng muôn năm!” Eragon, Arya, Däthedr và Grimrr hô vang. Môi con ma mèo giãn rộng, vuốt nhe ra, còn Saphira phát ra tiếng kêu trầm đục như tù và, vang vọng giữa trần nhà ra thành phố phủ bụi phía dưới. Ý nghĩ tán thành cũng phát ra từ các Eldunarí.
Nasuada đứng thẳng tự hào, đôi mắt cô tuôn lệ, ngời sáng trong anh đèn xam xám. “Cảm tạ,” cô nhìn vào mắt từng người một. Tuy nhiên, ý nghĩ của cô có vẻ đang lang thang đâu đó, một tia buồn bã thoang thoảng mà Eragon ngờ rằng không ai để ý nữa.
Bóng đêm bao phủ khắp vùng đất, những ngọn đèn từ đỉnh tháp sáng rực lên soi rọi trên đầu thành phố.
Lời mộ chí thích đáng(A fitting epitaph)
Sau chiến thắng ở Urû’baen, Eragon cảm thấy những tháng ngày kế tiếp trôi vừa nhanh vừa chậm. Nhanh bởi có rất nhiều việc cần nó và Saphira làm, hiếm có hôm nào họ không mệt lử khi mặt trời lặn. Chậm bởi vẫn cảm thấy thiếu thốn mục đích – dù có vô số nhiệm vụ Nữ hoàng Nasuada giao cho – với nó như thể chúng chỉ là những khoảng nước tĩnh lặng chờ bất kì cái gì đẩy vào dòng chảy.
Saphira và nó ở lại Urû’baen thêm bốn ngày sau khi Nasuada trở thành nữ hoàng, giúp Varden hiện diện ở những khu vực lân cận. Họ dành phần lớn thời gian xử lý chuyện của người dân trong thành – xoa dịu những đám đông phẫn nộ vì vài hành động của quân Varden – hay truy đuổi những nhóm binh lính chạy khỏi Urû’baen, lẩn trong những đám lữ hành, nông dân hay những trang trại gần đó. Nó cùng Saphira cũng tham gia vào quá trình xây dựng lại cánh cổng thành khổng lồ, theo chỉ thị của Nasuada nó ếm vài câu thần chú phòng ngừa những kẻ vẫn còn trung thành với Galbatorix làm loạn. Chúng chỉ có hiệu lực với những người trong thành và vùng đất xung quanh, nhưng dù sao cũng làm quân Varden yên tâm hơn nhiều.
Eragon để ý quân Varden, người lùn, kể cả các tiên nhân cũng đối xử với nó lẫn Saphira khác hẳn so với trước cái chết của Galbatorix. Họ có vẻ tôn trọng và cung kính hơn hẳn, nhất là con người, nó dần nhận ra là họ tôn tờ nó và Saphira. Đầu tiên nó cũng thích thú – Saphira thì có vẻ không quan tâm lắm – nhưng nó bắt đầu thấy phiền toái khi nhận ra nhiều người lùn và con người quá sốt sắng làm nó vui lòng, họ sẽ nói bất kì điều gì họ cho là nó muốn nghe, kể cả không phải sự thật. Nó thấy bực mình khi biết được điều đó; giờ nó cảm thấy không thể tin ai khác ngoài Roran, Arya, Nasuada, Orik, chú Horst, và dĩ nhiên là Saphira.
Nó rất hiếm gặp Arya trong mấy ngày này. Trong vài lần chạm mặt, cô có vẻ thu mình, rồi nó nhận ra đó là cách cô đối mặt với nỗi đau thương trong lòng. Họ không có cơ hội nói chuyện riêng, nó chỉ kịp bày tỏ những lời chia buồn ngắn ngủi và kì cục. Nó nghĩ cô ghi nhận chúng, nhưng khó mà biết được.
Còn Nasuada có vẻ đã lấy lại hầu hết động lực, tinh thần và nặng lương trước đây chỉ sau một giấc ngủ, khiến Aragon kinh ngạc. Nó càng đánh giá cô cao tợn khi nghe kể về thử thách trong Căn phòng Tiên tri, và khi nó nhắc tới Roran, người mà cô không hé răng từ hồi nào. Cô ca ngợi Eragon vì lãnh đạo Roran khi không có cô – nó phản đối rằng hầu như nó đi biền biệt – rồi cảm ơn nó đã giải cứu cô nhanh nhất có thể, vì cô thừa nhận sau đó, Galbatorix đã suýt hạ gục cô.
Vào ngày thứ ba, Nasuada đăng quang trong quảng trường lớn gần trung tâm thành phố, trước mặt đám đông khổng lồ con người, người lùn, tiên nhân, ma mèo và cả Urgal. Vụ nổ kết liễu Galbatorix đã phá hủy vương miện cổ của Broddring, nên những người lùn đã đúc một chiếc mới từ vàng tìm thấy trong thành phố và những viên ngọc các tiên nhân rút ra từ mũ giáp lẫn chuôi gươm của họ.
Buổi lễ diễn ra đơn giản, nhưng càng hiệu quả hơn. Nasuada đi ra từ phía tòa thành đổ nát. Cô mặc một bộ đồ hoàng gia màu tím – cắt một vạt ở khuỷu tay, khiến ai cũng có thể thấy những vết sẹo trên cánh tay cô – cùng hàng ren lông chồn được Elva mang theo, bởi Eragon nài nỉ cô bé theo sát Nasuada gần nhất có thể sau lời cảnh báo của Murtagh.
Tiếng trống chậm rãi vang lên khi Nasuada bước lên bệ đá dựng giữa quảng trường. Trên đỉnh bệ, Eragon đứng cạnh chiếc ngai vàng uốn lượn, Saphira ở sát phía sau. Phía trước chiếc bục nhô lên là vua Orrin, Ork, Grimrr, Arya, Däthedrvà Nar Garzhvog.
Nasuada bước lên đài, gùy xuống trước Eragon và Saphira. Một người lùn trong tộc Orik dân lên Eragon chiếc vương miện mới làm, nó đặt lên đầu Nasuada. Rồi Saphira vòng cổ xuống chạm vào lông mày Nasuada bằng mõm, rồi cả cô nàng và Eragon cùng nói:
“Hãy đứng dậy hỡi nữ hoàng Nasuada, con gái của Ajihad và Nadara.”
Một hồi kèn hiệu vang lên, cả đám đông đang im phăng phắc chợt hoan hô thành một tạp âm kì cục, khi tiếng la hét của Urgal hòa lẫn với giọng êm ái thánh thót của tiên nhân.
Rồi Nasuada ngồi lên ngai vàng. Vua Orrin tiến lên phía trước thề trung thành, theo sau là Arya, vua Orik, Grimrr Nửa vuốt và Nar Garzhvog, mỗi người tuyên bố tình hữu nghị của giống nọ họ.
Eragon bị buổi lễ tác động mạnh. Nó thấy mình đang kìm nước mắt khi nhìn Nasuada ngồi trên ngai vàng. Chỉ khi cô đăng quang, tàn dư sự đàn áp của Galbatorix mới bắt đầu bị xóa đi.
Sau đó họ ăn mừng, quân Varden và các đồng mình liên hoan qua đêm đến tận ngày hôm sau. Eragon không nhớ nhiều về bữa tiệc trừ điệu nhảy của các tiên nhân, tiếng trống thập thình của người lùn, và bốn gã Kull leo lên tháp canh trên tường thành, thổi vang tù và làm từ sọ của cha chúng. Nhân dân trong thành cùng liên hoa, Eragon thấy vẻ mừng vui và nhẹ nhõm khi Galbatorix đã bị hạ bệ hiện trên gương mặt họ. Bên dưới cảm xúc của những người đang hiện diện là ý thức về tầm quan trọng của khoảng khắc này, bởi họ đang chứng kiến tận mắt kết thúc của một thời đại và bắt đầu của một thời đại khác.
Ngày thứ năm, khi cánh cổng đã gần dựng xong và thành phố có vẻ khá trật tự, Nasuada lệnh Eragon và Saphira bay tới Dras-Leona, rồi Belatona, Feinster và Aroughs, ở mỗi nơi dùng tên của cổ ngữ giải phóng lời thề trung thành với Galbatorix. Cô cũng yêu cầu Eragon trói buộc các binh sĩ và quý tốc – như đã làm ở Urû’baen – không cố gắng phá hoại nền hòa bình mới lập. Eragon từ chối, cảm thấy quá giống cách Galbatorix điều khiển lũ bầy tôi. Ở Urû’baen, rủi ro các sát thủ và những kẻ trung thành đủ lớn để Eragon sẵn sàng làm vậy. Nhưng nơi khác thì không. Nó nhẹ nhõm khi Nasuada đồng ý sau một hồi cân nhắc.
Nó và Saphira mang theo nữa số Eldunarí từ Vroengard, số còn lại ở cùng với những trái tim của tim giải cứu từ phòng chứa của Galbatorix. Blödhgarm và các pháp sư – những người không còn trói buộc bởi lời thề bảo về Eragon và Saphira – mang các Eldunarí tới một lâu đài cách vài dặm về phía bắc Urû’baen để dễ dàng bảo vệ những trái tim khỏi kẻ trộm, và tư tưởng của những con rồng điên loạn không ảnh hưởng tới ai trừ những người trông nom.
Chỉ khi thấy các Eldunarí an toàn Eragon và Saphira mới yên tâm lên đường.
Khi họ tới Dras-Leona, Eragon ngạc nhiên vì số lượng bùa chú rải khắp thành phố, cũng như ở tháp đá tối tăm Helgrind. Nó đoán rất nhiều trong đó phải có tuổi hàng trăm năm nếu không hơn: những bùa ếm bị lãng quên từ những thời đại trước. Nó để lại những câu thần chú có vẻ vô hại, và thi thoảng nó hơi miễn cưỡng làm xáo trộn những thần chú mà nó không hiểu mục đích la gì. Lúc này Eldunarí tỏ ra rất có ích, trong vài trường hợp họ nhớ được ai đặt thần chú và vì sao, hoặc là có khả năng tìm ra mục đích của thần chú từ những mẩu thông tin vô nghĩa với Eragon.
Khi tới Helgrind và hàng loạt hang ổ của các thầy tu – những người trốn biệt ngay khi tin về cái chết của Galbatorix lan đến – Eragon giải trừ hết bùa chú bất kể tới có hại hay không. Nó cũng dùng tên của các tên để tìm thắt lưng Beloth Thông thái trong khu tàn tích của tòa thánh đường lớn nhưng không thấy.
Họ dừng lại Dras-Leona trong ba ngày, rồi tiến đến Belatona. Rồi nó lần lượt giải trừ bùa ếm của Galbatorix ở đây lẫn Feinster và Aroughs. Ở Feinster, kẻ nào đó đã cố đầu đọc nó bằng đồ uống. Lưới phòng hộ đã bảo vệ nó, nhưng vụ việc khiến Saphira tức tối.
Nếu dồn được đồ chuột-cống-hèn-nhát làm chuyện này, em sẽ ăn sống hắn kể cả ngón chân, cô nàng gầm ghè.
Trong chuyến bay trở lại Urû’baen, Eragon đi chệch một chút. Saphira đồng ý, đảo hướng bay, nghiêng đi khiến đường chân trời trở nên thằng đứng, cả đất trời phân tách làm đôi thành bầu trời xanh thẫm và mặt đất màu nâu lục.
Phải mất nửa ngày tim kiếm cuối cùng Saphira mới tìm thấy dãy đồi sa thạch, trên đó có một ngọn đồi đặc biệt: một phiến đá đỏ dốc xuống cùng hang động giữa lưng chừng. Trên đỉnh đổi là ngôi mộ kim cương lấp lánh.
Ngọn đồi vẫn y chang như trong trí nhớ Eragon. Khi nhìn lên, ngực nó co thắt lại.
Saphira đáp xuống cạnh ngôi mộ. bụi tung lên.
Eragon chậm rãi tháo đai chân, trượt xuống mặt đất. Cơn sóng quay cuồn tràn qua nó cùng mùi ấm áp của đá, trong khoảnh khắc nó như đang trở lại quá khứ.
Rồi nó lắc đầu tỉnh táo lại. Bước lại gần nhìn sâu trong lòng mộ trong suốt, nó thấy Brom.
Ở đó nó thấy cha mình.
Vẻ ngoài Brom vẫn không thay đổi. Lớp kim cương bao quanh giữ thân thể ông khỏi sự tàn phá của thời gian, da thịt không phân hủy chút nào. Làn da nhăn nheo trên khuôn mặt nhuộm hồng, như thể máu tươi vẫn chảy bên dưới. Bất kì lúc nào trông Brom cũng như thể sẽ mở mắt đứng dậy, cùng đi tiếp hành trình dang dở của họ. Như thế nào đó, ông sẽ bất diệt vì không bao giờ già đi, nhưng mãi mãi chìm sâu trong giấc mộng.
Thanh gươm nằm trên ngực Brom, đuôi kiếm đặt sát bộ râu, bàn tay cầm chuôi gấp lại như Eragon đã xếp. Rồi bên cạnh ông là cây trượng xương xẩu, giờ Eragon mới nhận ra trên nó khắc chạm một tá nét chữ bằng cổ ngữ.
Mắt Eragon tuôn lệ. Nó khụy gối câm lặng khóc trong khoảng thời gian như vô tận. Rồi nó cảm thấy Saphira trong tâm trí, nó biết cô nàng cũng đang tiếc thương sự ra đi của Brom.
Cuối cùng Eragon đứng thẳng dậy, vươn mình về phía rìa mộ quan sát gương mặt Brom. Giờ nó đã biết mình nhìn thấy gì, nó có thể thấy những nét giống nhau trên gương mặt họ, mờ đi theo thời gian và bị che khuất bởi bộ râu của ông, nhưng không thể nhầm được. Góc cạnh trên gò má Brom, nếp nhăn giữa đôi mày ông, phiến môi trên cong cong; Eragon nhận ra cả. Nhưng nó không thừa hưởng cái mũi khoằm của Brom, cái đó nó nhận từ mẹ mình.
Eragon nhìn xuống, hơi thở nặng nề, trước mặt lại mờ đi. “Xong rồi,” nó thấp giọng. “Con đã làm được rồi. Chúng con đã làm được rồi. Galbatorix đã chêt,s Nasuada ngồi trên ngai vàng, và cả Saphira lẫn còn đều không sao. Như thế làm hài lòng cha chứ, đồ cáo già?”Nó bật cười nhẹ rồi gạt nước mặt bằng cánh tay. “Thêm nữa, còn có những quả trứng rồng ở Vroengard. Nhiều trứng rồng ấy! Lũ rồng sẽ không bị tuyệt diệt đâu. Saphira và con sẽ nuôi nấng chúng. Cha sẽ không bao giờ thấy trước chuyện đó, phải không? Nó lại cười, vừa cảm thấy ngốc nghếch lẫn đau thương. “Cha sẽ nghĩ gì về tất cả chuyện vậy? Cha vẫn như vậy mãi, nhưng bọn con thì không. Giờ cha còn nhận ra bọn con nữa chăng?”
Dĩ nhiên ông ấy sẽ, Saphira nói. Anh là con trai ông mà. Cô nàng chạm nhẹ mõm vào nó. Ngoài ra, khuôn mặt anh không quá khác để ông phải nhầm với ai đó đâu, kể cả nếu mùi của anh đã thay đổi.
“Thật à?”
Mùi của anh giờ giống tiên nhân hơn … Dù sao ông cũng sẽ không nhầm em với Shruikan hay Glaedr, phải không?
“Không đâu.”
Eragon khụt khịt, lùi ra khỏi ngôi mộ. Brom trông vẫn đầu sức sống trong lớp kim cương, cảnh tượng khiến nó nảy lên một ý: một ý tưởng điên rồ, vô lý đến mức nó gần như chối phắt, nhưng cảm xúc buộc nó không bỏ qua được. Nó nghĩ tới Umaroth và các Eldunarí – với hiểu biết và những gì đã đạt được với thần chú của nó ở Urû’baen – một tia hy vọng cháy bỏng lóe lên trong tim nó.
Nó nói vởi cả Saphira lẫn Umaroth, Brom chỉ vừa mới chết khi chúng tôi chôn ông. Đến hôm sau Saphira mới biến tảng đá thành kim cương, nhưng ông vẫn được bọc trong đá trước đó cách ly khỏi không khí cả đêm. Umaroth, với sức mạnh và hiểu biết của người, liệu có thể … có thể chúng ta vẫn chữa lành cho ông được. Eragon rùng mình như thể đang lên cơn sốt. Trước đây tôi không biết làm sao để chữa lành vết thương ông ấy, nhưng bây giờ - giờ tôi nghĩ có thể.
Sẽ khó hơn cậu tưởng tượng nhiều đấy, Umaroth nói.
Đúng vậy, nhưng người có thể làm được mà! Eragon nói. Tôi đã thấy mọi người và Saphira làm được những điều thần kì bằng phép thuật. Chắc chắn chuyện này không quá sức mọi người được!
Anh biết chúng em không thể sử dụng phép thuật theo ý mình mà, Saphira nói.
Kể cả nếu thành công, Umaroth tiếp, rất có khả năng chúng ta có thể hồi phục tâm trí Brom như trước. Trí óc là thứ rất phức tạp, ông ấy có thể sẽ trở nên lẫn lộn và thay đổi tính cách. Rồi sao nữa? Cậu có muốn ông ấy sống như thế không? Ông ấy có muốn vậy không? Không đâu, tốt nhất cứ để ông ấy như thế, Eragon à, để tôn vinh ông với những suy nghĩ và việc làm của mình như cậu đã từng. Cậu muốn mọi chuyện sẽ khác đi. Thế thì hãy hành động vì những kẻ đã mất người thân yêu. Tuy nhiên, đó là đạo lý. Brom sống trong trí nhớ của các cậu, và nếu ông là người như cậu đã cho chúng tôi thấy, ông sẽ đồng ý như vậy. Và cậu cũng nên chấp nhận như thế.
Nhưng …
Không phải Umaroth mà là Eldunarí cổ nhất, Valdr ngắt lời. Eragon nhạc nhiên vì ông lên tiếng không phải bằng hình hay hay cảm xúc, mà những từ cổ ngữ, căng thẳng và vất vả, như thế một ngôn ngữ xa lạ. Ông nói, Để những người chết cho lòng đất đi. Họ không phải dành cho chúng ta. Rồi ông không nói thêm, nhưng Eragon cảm thấy rõ sự buồn bã và thông cảm.
Eragon thở dài, nhắm mắt một hồi. Rồi trong tim, nó cho phép mình giải phóng hy vọng sai lầm đó, chấp nhận sự thật Brom đã ra đi.
“Ài,” nó bảo Saphira. “Anh không nghĩ chuyện này sẽ khó khăn như vậy.”
Sẽ thực lạ lùng nếu nó không khó. Nó cảm giác hơi thở ấm áp của cô nàng mơn man trên đỉnh đầu, vành môi cô nàng chạm vào lưng nó.
“phụ thân,” Lời nói có vẻ kì lạ từ miệng nó, nó chưa bao giờ mở miệng như vậy trước ai. Rồi Eragon nhìn về phía hàng kí tự nó khắc trên chóp ngôi mộ, rằng: