Hai Số Phận
Chương 14 :
Ngày đăng: 15:11 19/04/20
William và Matthew học năm đầu ở Harvard mùa thu năm 1924. Mặc dầu không được các cụ đồng ý, William vẫn nhận học bổng Hamilton về toán là 290 đôla, dùng số tiền đó sắm chiếc Daisy, kiểu xe mới nhất của hãng Ford và cũng là điều đầu tiên William yêu quý nhất đời mình. Anh đem xe đi sơn màu vàng nhạt. Tiền sơn bằng nửa tiền xe, hưng số bạn gái của anh lại tăng gấp đôi. Lúc đó Calvin Coolidge (Tổng thống thứ 30 của Mỹ) thắng lớn trong bầu cử để trở lại Nhà trắng, và thị trường chứng khoán New York đạt kỷ lục đầu tiên từ năm năm là có đến 2336160 cổ phiếu.
Cả hai chàng trẻ tuổi đều mong cho chóng đến ngày vào đại học. Sau một mùa hè hoạt động sôi nổi với quần vợt và đánh gôn, họ sẵn sang đi vào những thứ người lớn hơn nữa. William bắt đầu ngay từ hôm về đến căn phòng mới của mình trên "Bờ biển Vàng", so với căn phòng nhỏ hồi còn ở trường St. Paul thì khá hơn nhiều lắm. Còn Matthew thì đi tham gia vào câu lạc bộ bơi thuyền của trường. Matthew được bầu làm đội trưởng của đội năm thứ nhất. Mỗi chiều chủ nhật, William lại bỏ sách vở để ra xem bạn chèo thuyền trên sông Charles. Anh mừng với mỗi thành công của Matthew, nhưng cũng tỏ ra nghiêm khắc với bạn.
- Cuộc đời không phải chỉ có tám người cắm đầu cắm cổ khua mái chèo dưới nước và nghe một anh chàng nhỏ bé hơn mình ngồi đầu thuyền mà hét đâu nhé, - William nói.
- Cậu đi mà nói cái đó cho bọn Yale (một trường Đại học ở bang Connecticut) đó nghe, - Matthew đáp.
Trong khi đó William nhanh chóng chứng minh cho các giáo sư về toán thấy rằng anh không khác gì Matthew trước đây, tức là bỏ xa các bài đang được học rất nhiều. William cũng được bầu làm Chủ tịch Hội tranh luận của năm thứ nhất trong trường. Anh thuyết phục ông ngoại của mình là chủ tịch Lowell thực hiện kế hoạch bảo hiểm đầu tiên của trường bằng cách bảo đảm cho mỗi sinh viên tốt nghiệp Harvard được bảo hiểm sinh mạng suốt đời mà mỗi người chỉ phải đóng có 1000 đôla, do nhà trường thu dần. William tính rằng như vậy mỗi sinh viên tham gia bảo hiểm chỉ phải đóng mỗi tuần không đến một đôla và nếu cả 40 phần trăm từ năm 1950 trở đi, trường Harvard đã có thể có được thu nhập mỗi năm chừng 3 triệu đôla. Ông chủ tịch nghe anh trình bày kế hoạch đó liền ủng hộ ngay và một năm sau mời William tham gia vào bộ phận lãnh đạo của ủy ban quyên góp trong trường. William rất tự hào nhận chức vụ đó mà không biết là anh sẽ phải làm chuyện ấy suốt đời. Chủ tịch Lowell báo cho là bà nội Kane của anh biết là ông đã có được một trong những bộ óc tài chính giỏi nhất của thế hệ này mà chẳng mất đồng nào. Bà nội Kane trả lời ông em họ của bà rằng: mọi thứ đều có mục đích của nó cả, và như vậy William càng có thêm nhiều kinh nghiệm xử thế sau này.
Năm thứ hai vừa bắt đầu là đã đến lúc phải chọn dần một trong số những Câu lạc b Chung kết, tức là những tổ chức của trường có liên quan đến những cở xã hội của từng người, nhất là những con nhà giàu. William được đưa vào câu lạc bộ Porcell là một hội lâu đời nhất, giàu nhất, độc đáo nhất nhưng cũng kín đáo nhất. Trong hội quán của nó ở đại lộ Massachusetts đặt trong một tiệm cà phê rẻ tiền có tên là Hayes-Bickford, anh có thể ngồi đàng hoàng trong một chiếc ghế bành, suy nghĩ về những chuyện đang xảy ra ngoài đời, ngắm nhìn quanh cảnh ngoài đường phố qua tấm gương đặt ở góc phòng và nghe chiếc đài lớn mới lắp.
Đến kỳ nghỉ Giáng sinh, William bị thuyết phục đi trượt tuyết với Matthew ở Vermont và anh phải mất một tuần vất vả trèo núi để theo kịp người bạn của mình.
- Này Matthew này, tại sao lại phải mất một giờ trèo lên núi cao để rồi chỉ trượt xuống trong có mấy giây đồng hồ mà lại nguy hiểm đến tính mạng hoặc bị ngã gãy chân như vậy?
Matthew càu nhàu.
- Như thế chả hơn là ngồi với những lý thuyết về đồ thị hay sao? Này William, sao cậu không thừa nhận là leo lên hay trượt xuống cậu đều tồi cả?
Trong năm thứ hai, họ bận nhiều việc khác nên bỏ qua một số môn học, tuy với mỗi người khái niệm về "bỏ qua" cũng rất khác nhau. Hai tháng đầu nghỉ hè, họ làm việc với tư cách trợ lý tập sự cho ngân hang Charles Lester ở New York. Ông bố của Matthew bây giờ đã thôi không giữ một khoảng cách với William nữa. Vào những ngày nóng ẩm của tháng tám, William và Matthew nhảy lên chiếc Daisy về vùng nông thôn New York hoặc di chuyển trên sông Charles với các cô gái, và hễ cứ đâu có chiêu đãi là họ tranh thủ để được mời và đến dự. Họ lúc nào chả phải đóng vai những nhân vật quan trọng của trường. Ai cũng có thể biết rằng hễ cô gái nào lấy William Kane hoặc Matthew Lester thì đều không có gì phải lo cho tương lai của mình nữa.
Ngày 18 tháng tư 1927, William mừng ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của mình bằng một cuộc gặp cuối cùng với những người được ủy thác trông coi tài sản của anh, Alan Lloyd và Tony Simmons đã chuẩn bị các thứ giấy tờ cho anh ký.
- Thôi nhé, William thân mến, - bà Milly Preston nói với một giọng như vừa được trút khỏi gánh nặng, - Tôi tin rằng anh sẽ có thể làm được từng việc cụ thể như chúng tôi đã làm.
- Tôi hy vọng như vậy, thưa bà Preston, nhưng nếu như khi nào tôi cần mất nửa triệu đôla trong một đêm, thì tôi sẽ biết phỉa gọi cho ai.
Milly Preston đỏ bừng mặt nhưng không dám trả lời.
Quỹ ủy thác bây giờ đã được trên 32 triệu đôla. William đã có kế hoạch trong đầu để nuôi số tiền ấy, nhưng anh cũng tự đặt cho mình nhiệm vụ là kiếm thêm một triệu đôla nữa trước khi rời trường Harvard. So với tiền ủy thác thì nó không là bao nhiêu, nhưng tài sản thừa kế đối với anh không thể nào có ý nghĩa bằng tài khoản tự anh làm ra được và gửi ở ngân hàng Lester.
Mùa hè năm đó, các cụ bà nội ngoại rất lo sợ có các cô gái nhòm ngó tiền của các cháu mình, đã cho William và Matthew đi chơi một tua ở châu Âu. Chuyến đi này lại hóa ra thành công lớn cho cả hai người. Matthew vượt qua mọi trở ngại về ngôn ngữ, hễ cứ đến một thủ đô nào của châu Âu là lại kiếm được một cô gái đẹp. Anh ta bảo với William rằng tình yêu là một thứ hàng tiêu dung có tính quốc tế. Còn William thì tự giới thiệu mình với mỗi giám đốc của các ngân hàng châu Âu. Anh bảo Matthew rằng tiền cũng là một thứ hang tiêu dung có tính quốc tế. Từ London đến Berlin và Rome, hai anh chàng để lại sau lưng một loạt những trái tim tan vỡ và những nhà ngân hàng với khá nhiều ấn tượng. Về đến Harvard vào tháng chin, cả hai người đã sẵn sang lao vào sách vở để chuẩn bị cho năm cuối cùng ở trường.
Vào mùa đông năm 1927 khá rét mướt, bà nội Kane qua đời, hưởng thọ 85 tuổi. Đã lâu lắm rồi kể từ sau khi mẹ chết, bây giờ William mới lại khóc.
Ít ngày sau khi cùng chia buồn với William về cái chết của bà cụ. Matthew nói:
- Thôi cậu, bà cụ đã sống một cuộc sống cuộc sống sung sướng và cụ cũng đã chờ khá lâu để tìm hiểu xem Chúa là người thuộc họ Cabot hay Lowell rồi.
William nhớ đến những lời bà nội trước đây thường nói, mặc dầu anh không thích lắm. Nhưng anh tổ chức một đám tang rất linh đình cho bà. Anh cho chở bà trên chiếc xe tang Packard đen đến nghĩa trang một cách sang trọng, trang nghiêm mà nếu bà còn sống chắc sẽ không bằng lòng. Cái chết của bà khiến cho William càng tập trung vào việc học hơn trong năm cuối ở Harvard. Anh quyết tâm giành giải thưởng hàng đầu về toán của trường để kỷ niệm bà nội. Sáu tháng sau bà ngoại Cabot cũng mất nốt. William nghĩ có lẽ vì bà buồn không còn ai để trò chuyện nữa.
Tháng hai năm 1928, đội trưởng đội tranh luận đến gặp William. Họ báo là tháng sau đó sẽ có cuộc tranh luận và mọi người phải ăn mặc chỉnh tề để nói về Chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản cho tương lai của nước Mỹ. Trong cuộc tranh luận này, cố nhiên William sẽ được yêu cầu đại diện cho chủ nghĩa tư bản.
- Nếu như tôi bảo với anh rằng tôi chỉ muốn phát biểu nhân danh những quần chúng bị áp bức thì sao nhỉ? – William hỏi lại đội trưởng. Anh ta ngạc nhiên, vì xưa nay vẫn nghĩ rằng William vốn là dòng dõi con nhà giàu và lại là một nhà ngân hang có triển vọng thì không thể có ý nghĩa quái gở ấy được.
Alan nhìn người trẻ tuổi một cách âu yếm.
- Bây giờ tốt nghiệp Harvard rồi, anh định làm gì?
- Tôi sẽ về ngân hàng Charles Lester ở New York. Tôi muốn có được ít kinh nghiệm trong mấy năm trước khi về ngân hàng Kane và Cabot.
- Nhưng anh đã sống với ngân hàng Lester suốt từ hồi anh hai mươi tuổi đến giờ kia mà, William. Tại sao bây giờ anh không về thẳng chỗ chúng tôi đi? Chúng tôi sẽ cử anh làm giám đốc ngay lập tức.
Alan Lloyd chờ anh trả lời, nhưng không thấy anh nói gì.
- William, chẳng có gì khiến anh bị ngỡ ngàng đến mức không nói lên được như vậy. Rất không phải con người của anh là thế.
- Nhưng tôi không bao giờ có thể ngờ rằng ông sẵn sàng mời tôi tham gia ban lãnh đạo trước khi tôi hai mươi lăm tuổi. Hồi cha tôi...
- Đúng là cha anh đến hai mươi lăm tuổi mới vào ban lãnh đạo. Tuy nhiên không có lý do gì ngăn trở anh tham gia ban lãnh đạo trước cái tuổi đó nếu như các giám đốc khác tán thành ý kiến này, mà tôi thì tôi biết là họ đều tán thành cả. Dù sao cũng còn có những lý do riêng mà tôi muốn thấy anh làm giám đốc càng sớm càng tốt. Trong năm năm nữa tôi rút khỏi ngân hàng, tôi muốn chắc chắn là người ta bầu lên được một chủ tịch xứng đáng. Nếu anh làm việc ở ngân hàng Kane và Cabot trong năm năm đó thì anh sẽ ở tư thế thuận lợi hơn để tác động đến việc bầu chọn này, chả hơn là anh đi làm một viên chức cao cấp bên ngân hàng Lester hay sao? Nào, thế anh có đồng ý tham gia ban lãnh đạo không đây?
Đây là lần thứ hai trong ngày, William ước gì cha anh còn sống để được thấy cảnh này.
- Tôi sẽ rất sung sướng nhận lời, thưa ông. – Anh đáp.
Alan nhìn William.
- Đây cũng là lần thứ hai anh "thưa ông" với tôi kể từ bữa đánh gôn đấy nhé. Tôi phải coi chừng anh mới được.
William cười.
- Tốt rồi, thế là giải quyết xong. – Alan Lloyd nói. – Anh sẽ là giám đốc thứ hai phụ trách về các khoản đầu tư, trực tiếp làm việc dưới quyền Tony Simmons.
- Tôi có thể cử người phó cho riêng mình được không? – William hỏi.
Alan Lloyd nhìn anh mỉm cười.
- Chắc là Matthew Lester?
- Vâng. Đúng thế.
- Không, tôi không muốn anh ta làm ở ngân hàng chúng ta cái mà anh định làm ở ngân hàng bên đó. Đáng lẽ Thomas Cohen đã phải dạy cho anh biết điều này rồi chứ.
William không nói gì nhưng từ đó không dám đánh giá thấp Alan nữa.
Anh kể lại nguyên văn câu chuyện đó cho Charles Lester nghe và ông ta phá lên cười:
- Rất tiếc là anh không về với ngân hàng chúng tôi, dù với tư cách là một gián điệp, - ông ta tươi cười nói. – Nhưng tôi chắc là một ngày nào đó anh cũng sẽ về đây, với tư cách này hay tư cách khác.