Hành Trình Về Phương Đông

Chương 1 : Người ðạo sĩ thành benares

Ngày đăng: 13:45 19/04/20


Trong cuộc sống vội vã, quay cuồng hiện tại, nhiều người đã mất đi niềm tin. Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thỏa mãn các nhu cầu vật chất vì chết là hết. Không có Thượng Ðế hay một quyền năng siêu phàm gì hết. Cách đây không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa Kỳ đã tuyên bố: "Thượng Ðế đã chết." Tác giả bài báo công khai thách đố mọi người đưa ra bằng chứng rằng Thượng Ðế còn sống. Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một cuộc bàn cãi rất sôi nổi. Một nhà Thiên Văn Học tại trung tâm nghiên cứu Palomar cũng cho biết: "Tôi đã dùng kính viễn vọng tối tân nhất, có thể quan sát các tinh tú xa trái dất hàng triệu năm ánh sáng mà nào có thấy Thiên Ðường hay Thượng Ðế cư ngụ nơi nào?" Sự ngông cuồng của khoa học thực nghiệm càng ngày càng đi đến chỗ quá trớn, thách đố tất cả mọi sự.



Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả thì một sự kiện xảy ra: Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu Vương Ranjit Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm Ðại Học Oxford, vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ nầy đã làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hóa học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do Bác Sĩ Sir Claude Wade khám ngiệm ông ta còn chui vào một quan tài để bị chôn sống trong suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Ðạo sĩ còn biểu diễn nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Ðiều này gây sôi nỗi dư luận lúc đó, Hội Khoa Học Hoàng Gia đã phải triệu tập một ủy ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn Ðộ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đã đặt ra những tiêu chuẩn rõ rệt để giúp họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối: Không chấp nhận bất cứ một điều gì nếu không có sự giải thích rõ ràng, hợp lý. Ðể soạn bản thảo tường trình, mỗi khoa học gia trong phái đoàn phải tự mình ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe vào sổ tay cá nhân. Sau đó, tất cả cùng nhau so sánh chi tiết và kiểm chứng cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều đồng ý thì điều đó mới dược ghi nhận vào biên bản chính. Ðiều này đặt ra để bảo đảm cho sự chính xác, không thành kiến đến mức tối đa. Tất cả những điều gì xảy ra mà không có sự giải thích khoa học, hợp lý đều bị loại bỏ.



Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Giáo sư Spalding đã cho biết: "Phương Ðông có những chân lý quan trọng đáng để cho người Tây Phương nghiên cứu, học hỏi. Ðã đến lúc người Tây Phương phải quay về Ðông Phương để trở về với quê hương tinh thần." Ðiều đáng tiếc là sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm về những điều chứng kiến. Sau đó ít lâu, Trưởng phái đoàn, giáo sư Spalding đã cho xuất bản bộ sách "Journey to the East" và nó đã gây ngay một dư luận hết sức sôi nổi. Người ta vội tìm đến những người trong phái đoàn thì được biết họ đã rời bỏ Âu Châu để sống đời tu sĩ trong dãy Tuyết Sơn. Tuy thế, ảnh hưởng cuốn sách nầy đã tạo hứng khởi cho nhiều người khác trở qua Ấn Ðộ để kiểm chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên ký sự của Sir Walter Blake đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt điều tra của ký giả Paul Brunton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí của Ðông Phương và xác nhận giá trị cuộc nghiên cứu này.



Ấn Ðộ là xứ có rất nhiền tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời sống và trở nên một động lực rất mạnh làm chủ mọi sinh hoạt người dân xứ này. Người Ấn hường tự hào rằng văn hóa của họ là một thứ văn minh tôn giáo và dân xứ nầy được thừa hưởng một kho tàng minh triết thiêng liêng không đâu có. Vì thế Hội Khoa Học Hoàng Gia đã bảo trợ cho phái đoàn đến nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này.



Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn Ðộ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng, phái đoàn vẫn không thỏa mãn hay học hỏi điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần thánh hóa vài huyền thoại để đề cao văn hóa xứ họ. Ða số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là Hiền Triết (Rishi), Sư Tổ (Guru) hay Ðại Ðức (Swami), thậm chí có người xưng là Thánh Nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn Ðộ giáo không có một chương trình đào tạo tu sĩ như Thiên Chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ. Ấn giáo không phải một tôn giáo thuần nhất mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn giáo Âu Châu. Các giáo sĩ mạnh ai giải thích kinh điển theo sự hiểu biết của họ. Phần lớn cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác. Sự tranh luận tôn giáo là điều xảy ra rất thường, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý của Thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại một kết qủa mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lõng, rối rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa Học Hoàng Gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt trên căn bản trên một nền tảng khoa học, hợp lý nhưng lấy tiêu chuẩn nầy áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại vì văn hóa Ấn Ðộ và Âu Châu khác hẳn nhau. Người dân xứ nầy chấp nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không? Họ sùng tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.



Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares. Giữa rừng người hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cỡi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngững cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bổng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngả. Ðám đông xúm lại xi xầm coi bộ khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bã á phiện và được luyện tập cẩn thận... Khắp xứ Ấn, các trò bịp bợm nầy diễn ra không biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên "cò mồi" đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ và khuyến khích dân chúng ném theo... Ðang mãi mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ khác thường chăm chú nhìn ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn trả lời:



"Các vị minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt. Các đạo sĩ mà ông đã gặp sở dĩ nổi tiếng, có đông giáo đồ vì họ biết thu tập đệ tử qua các hình thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều gì ngoài một số "từ chương" trong kinh sách. Ðiều này một người thông minh có thể tự đọc sách, nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?"



Giáo sư Spalding ngạc nhiên:



"Tại sao ông biết rõ như thế?"



Người Ấn mỉm cười:



"Các ông đã bàn cãi với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới lạ, phái đoàn sẽ trở về Âu Châu và kết luận rằng Á Châu chả có diều gì đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á Châu."



Giáo sư Spalding mất bình tĩnh:



"Nhưng tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế, ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia mà?"



Người Ấn nở một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh:



"Tư tưởng, ông bạn thân mến có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc thánh kinh: Hãy Gõ Cửa Rồi Cửa Sẽ Mở, Hãy Tìm Rồi Ngươi Sẽ Gặp. Ðó là thông điệp của một vị chân sư nhờ tôi chuyển giao."



Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Banares nhắc đến một câu trong Thánh Kinh làm giáo sư Spalding ngây ngất như say vừa tỉnh. Toàn thân ông như rung động bởi một luồn điện cao thế. Ông lắp bắp:



"Nhưng làm sao chúng tôi biết các Ngài ở đâu mà tìm? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các đô thị, làng mạc xứ Ấn..."



Người Ấn nghiêm nghị trả lời:



"Hãy đến Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dẫy Hy-Mã-Lạp-Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài hoặc ngồi thiền trong các dộng đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Ðó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự đi tìm chân lý. Một số người đã thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất... Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông thì các ông sẽ không thất vọng."



Người Ấn im lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding:



"Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa để tìm gặp các đấng chân sư (Rishi) thì các ông còn mất nhiều thời gian nữa..."



Giáo sư Spalding thắc mắc:



"Ông vừa dùng danh từ Chân Sư, vậy chứ Chân Sư (Rishi) và Ðạo Sĩ (Yogi) khác nhau thế nào?"



"Nếu ông tin ở thuyết tiến hóa của Darwin thì tôi xin tóm tắc: Sự tiến hóa của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân Sư là một người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hóa trong khi Ðạo Sĩ chỉ mới bắt đầu..."



"Như thế thì các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ?"



Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu:



"Chắc chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải mục đích tối hậu của con đường đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí. Ðối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các Ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là giải thoát, là trở nên toàn thiện như những đấng cao cả mà đức Chúa Jesus là một."



Giáo sư Spalding cãi:



"Nhưng Chúa Jesus đã từng làm các phép lạ."



Người Ấn bật cười trả lời:



"Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng đức Jesus làm vậy vào mục đích khoe khoang hay sao? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hóa những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi."




"Bạn mến, Yoga không phải một trò tiêu khiển trong lúc nhàn rỗi hoặc khi tuổi già bóng xế. Người Âu các ông sao ham hoạt động và tham lam quá vậy?"



Giáo sư Spalding đỏ mặt cãi:



"Nhưng tập Yoga để làm gì? Kéo dài đời sống khổ hạnh thêm vài năm có ích lợi gì đâu?"



Ðạo sĩ nghiêm mặt:



"Ai bảo mục đích Yoga là cầu sống lâu? Sống khổ hạnh mà không có ý nghĩa để làm gì? Phần lớn các đạo sĩ luyện thân thể cường tráng sống lâu hơn người khác chưa thấu hiểu mục đích tối hậu. Bạn nghĩ các bậc Chân Sư chỉ lo sống thêm ít lâu hay sao? Người đời thường chỉ hiểu một chiều và đi ngay đến kết luận. Chinh phục thể xác chỉ là bước đầu đưa con người đến việc chinh phục tinh thần. Giữ cho mình không hành động xấu thì dễ nhưng giữ cho tâm không nghĩ xấu mới khó khăn gấp bội và đòi hỏi nỗ lực phi thường. Ðời người quá ngắn, việc tập luyện kiểm soát thể xác đã đòi hỏi nhiều năm, không đủ để tu tập tinh thần, do đó, các đạo sĩ mới kéo dài thêm đời sống. Môn Hatha Yoga như tôi nói chỉ nhằm mục đích chủ trị xác thân, khi thành công phải tu tập thêm Raja Yoga nhằm chủ trị tinh thần nữa chứ. Hatha Yoga dọn đường cho Raja Yoga..."



"Thế tại sao không tập Raja Yoga ngay có hơn không?"



Ðạo sĩ lại bật cười"



"Người Âu thật hấp tấp, muốn đi xa phải đi từ từ, phải tập đi trước khi tập chạy chứ. Ðốt giai đoạn là bảo đảm thất bại. Khi thể xác chưa làm chủ nổi thì làm sao đã đòi làm chủ tinh thần..."



Giáo sư spalding nôn nóng:



"Nhưng làm sao tôi có thể học môn Raja Yoga, bạn có thể chỉ cho tôi thêm về môn này không?"



"Này ông bạn, việc gì cũng có duyên phận, nếu đủ duyên bạn sẽ gặp thầy hay bạn giỏi. Hãy có một lòng khao khát chân lý rồi định mạng sẽ dẫn dắt bạn."



"Nhưng tôi đâu quen biết ai, các bậc chân sư đâu có tên trong điện thoại niên giám--- tôi làm sao gặp các ngài?"



Ðạo sĩ mỉm cười một cách bí mật"



"Hãy vững niềm tin, lòng khao khát cầu đạo có một tư tưởng mạnh mẽ và chắc chắn sẽ được đáp ứng. Hãy gõ cửa rồi cửa sẽ mở, hãy tìm rồi ngươi sẽ gặp, bạn quên rồi sao?



Giáo sư Spalding giựt mình, một lần nữa câu nói quen thuộc trong Kinh Thánh lại được nhắc nhở bởi một đạo sĩ xứ Ấn. Ông bối rối không biết nói gì. Ðạo sĩ mỉm cười nói tiếp:



"Người Âu có tính tò mò cái gì cũng muốn biết. Thực hành mới là quan trọng chứ biết để làm gì? Phương pháp rèn luyện tinh thần cũng giống như thể xác thôi. Nếu tập luyện thể thao đều đặn bắp thịt sẽ nẩy nở, rắn chắc thì tập rèn luyện tinh thần cũng vậy. Nhiều người có các tính xấu như ích kỷ, tham lam, hà tiện, đa nghi... do đó, họ hành động không tốt với người khác. Ða số cho rằng đó là bản tính tự nhiên, không đổi được. Thật ra, nếu muốn ta có thể sửa đổi mọi tính tình.Nếu một tập luyện đúng cách làm bắp thịt nở nang thì sự kiểm soát thích nghi sẽ tạo các đức hạnh cần thiết. Kinh Rig Veda đã ghi rõ: Kẻ nào quan niệm sự tiến hóa một cách rõ ràng chính xác sẽ ý thức được quyền lợi và hạnh phúc của mình. Muốn trở nên một bậc toàn thiện ta phải có các đức hạnh và can đảm. Người nào muốn cải thiện xã hội phải biết cải thiện mình trước đã. Phải biết quên quyền lợi riêng để chú tâm vào phận sự chung. Phải hiểu rằng các cơ hội tiếp xúc với mọi người đều tạo cho ta cơ hội phụng sự. Phụng sự mọi người chính là phụng sự Thượng Ðế.



Những người nhiệt tâm sửa mình phải ý thức quyền năng vô hạn của tư tưởng vì hành động phát sinh từ tư tưởng. Người tìm đạo phải biết kiểm soát tư tưởng của mình và sử dụng chúng một cách hợp lý và bác ái.



Kiểm soát tư tưởng là mục đích môn Raja Yoga. Trở ngại lớn nhất của những người luyện tâm, rèn chí là sự kiêu ngạo và óc chỉ trích. Với óc chỉ trích, con người công kích tất cả họ sẵn sàng bôi nhọ mọi đức hạnh, tìm sự sai quấy ở khắp mọi người. Người tu pháp Raja Yoga phải có thái độ ngược lại, phải tìm thấy điều thiện ở tất cả mọi người và nhìn thấy mọi sự đều có cái lý riêng của nó. Có thế họ mới giúp mình và người khác được. Trở ngại thứ hai là sự nông nổi, làm điều này chưa xong đã nhảy sang việc khác. Vừa bắt tay vào việc đã mong thấy kết quả và nếu kết quả chưa như ý muốn liền bỏ điều theo đuổi để nhảy sang một điều khác. Rốt cuộc không có điều gì xong cả. Thái độ này không thể chấp nhận được. Sự bền tâm kiên chí là điều cần thiết để chủ trị tư tưởng. Dĩ nhiên, kiếp người ngắn ngủi không ai có thể trừ hết thói hư, tật xấu trong một kiếp, do đó, việc tu hành cũng kéo dài trong nhiều kiếp sống.



Ðiều quan trọng là khi đã nhận thức con đường phải đi, cần tập trung nỗ lực để đi đến cùng. ý chí con người tồn tại từ kiếp này qua kiếp khác, những điều đã học hỏi sẽ không bao giờ mất cả. Cho đến khi cả tâm hồn lẫn thể xác đều đặt dưới sự kiểm soát của ý chí thì con người sẽ trở nên một bậc thánh nhân.



Khi đó họ sẽ ý thức các sự kiện vĩ đại của sự sống vô cùng và rời bỏ cái bản ngã để hòa mình vào giòng tiến hóa vũ trụ, hòa nhập với chân ngã bất diệt."



"Như thế môn này sẽ giúp ta trở nên một vị Thánh?"



"Này ông bạn, đừng nên kết luận vội vàng. Con đường dẫn đến quả vị tiên thánh đâu phải chỉ có một. Có nhiều con đường đưa đến chân lý và không đường nào hơn đường nào. Ðây là một điều vô cùng quan trọng mà bạn phải ghi nhớ mãi mãi: Không một con đường nào hơn đường nào dù là Hatha Yoga hay Raja Yoga hay là môn gì chăng nữa. Tại sao ta cứ nghĩ pháp môn này mới hay, tôn giáo kia mới tốt? Không một đường nào có thể là duy nhất được. Tốt hơn cả hãy tự biết mình. Thay vì tìm một chân lý tuyệt đối hãy tìm sự tuyệt đối nơi mình vì chân lý để sống chứ không phải để dạy."



Giáo sư Spalding im lặng không thốt lên câu nào. Lời nói của Ðạo sĩ như có một sức mạnh vang dội trong lòng ông. Các thành kiến từ trước bỗng tan biến hết và ông cảm thấy xúc động vô cùng.



Ðạo sĩ mỉm cười:



"Này ông bạn, không một vị thánh nào vỗ ngực xưng danh mà chỉ có các kẻ còn u mê trong bản ngã mới tha thiết đến danh vọng, địa vị. Khi họ đeo đầy mình những chức tước thì làm sao họ giải thoát được? Thượng Ðế ban cho ta trí thông minh để nhận xét thì ta phải biết phân biệt chứ. Hãy nhìn thành Benares với cả trăm đền thờ khác nhau, hàng ngàn giáo sĩ, tông phái. Ai cũng tự nhận rằng phe mình gần Thượng Ðế nhất. Tại sao suốt hai năm nay phái đoàn các ông đã đi khắp nơi, thăm viếng khắp chỗ mà vẫn không thỏa mãn? Phải chăng vì sự hiểu biết phân biệt các ông đã cao, không chấp nhận sự mê tín, mù quáng nữa.



Kinh Gita nói rõ: "Thầy nào, trò nấy, một tu sĩ chân chính không có đệ tử bất hảo và một đệ tử thông minh không tìm thầy bất lương." Luật thiên nhiên đã dạy "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu." Một người sáng suốt đâu thể đi theo kẻ u mê... Một tu sĩ hiểu biết phải lo làm chủ chính mình để cầu giải thoát chứ đâu phải lo lôi kéo đệ tử cho đông, xây cất các đền đài cho đẹp dể tự hào về các thành quả nầy. Như thế là phô trương bản ngã, kiêu căng, ngã mạn làm sao còn giải thoát được.



Bạn hãy sử dụng lý trí và trực giác để phân biệt những người này, nếu bạn tha thiết mong cầu chân lý thì chắc chắn điều mong ước sẽ thành sự thật. Chúng ta gặp nhau thế này cũng đã quá đủ, đã đến lúc tôi phải trở về am thất."



"Nhưng làm sao tôi sẽ gặp lại ông... tôi chưa biết tên ông."



"Hãy gọi tôi là Bramananda."



Giáo sư Spalding yên lặng nhìn vị đạo sĩ khuất dần qua hàng cây rậm rạp. Bóng chiều từ từ rơi xuống trên sông Hằng.