Hoàng Phi Sở Đặc Công Số 11

Chương 4154 : Thấm thoắt đã hai năm

Ngày đăng: 19:04 19/04/20


Sương mù giăng kín đồng cỏ, vầng thái dương vừa nhú hé lộ tia sáng nhàn nhạt đầu tiên. Một cánh chim chúi đầu bay lướt qua trên hồ, móng chân thoáng đụng phải khóm cỏ rong khiến mặt nước khẽ lay động. Trên thảm cỏ xanh mướt rộng mênh mông văng vẳng tiếng tù và, âm thanh trầm bổng uyển chuyển như nhành liễu trong gió xuân tháng ba.



Hiện đã vào thu nên buổi sớm cực kỳ lạnh, mùa thu ở Hồi Sơn luôn rất ngắn ngủi, tựa như mùa hè vừa qua thì mùa đông đã tới vậy. Các mục dân đều đã sớm vận thêm áo và ủng bông, phụ nữ chuyển sang mặc váy dài, khi đi lại, tà váy đỏ au sẽ xòe rộng như hỏa vân hoa, rực rỡ đến chói mắt.



Bình An và Đa Cát đang điên cuồng thúc ngựa chạy trên đồng cỏ, Thanh Thanh cưỡi trên một chú ngựa nhỏ lông đỏ theo ở đằng sau, to tiếng cổ vũ: “Đa Cát! Cố lên! Cố lên!”



Bình An năm nay mười lăm, đã trổ mã thành một thiếu niên cường tráng, tay chân linh hoạt, bắp thịt săn chắc như một chú báo. Chưa chạy hết một vòng đã bị Đa Cát bỏ xa khiến cậu vừa bực tức vung roi thúc ngựa, vừa quay sang Thanh Thanh đang chạy tới, mắng: “Nha đầu thối! Ai mới là ca ca của muội vậy? Sao có thể tát nước ruộng ngoài như thế hả?”



Thanh Thanh cười tít mắt, làm mặt quỷ với Bình An rồi vụt roi vào mông Tiểu Hồng, chạy theo Đa Cát.



Đa Cát là con trai của một gia đình du mục sống dưới chân Hồi Sơn nhưng lại có dáng vẻ thư sinh như người ở phía Đông đại lục, da trắng mũi cao, ánh mắt hiền hòa, năm nay đã mười sáu tuổi. Cậu nhìn thấy Thanh Thanh chạy đến thì dừng ngựa lại, mỉm cười nói: “Thanh Thanh, chạy nhanh lên, huynh sẽ cản Bình An cho muội.”



“Đa Cát~~~” Xa xa có người dài giọng gọi.



Đa Cát nghe thấy liền ghìm cương ngựa, vẫy vẫy tay với đằng xa rồi nói: “A ma gọi, đi thôi, tới nhà ta.”



“Nhất định là A ma Đa Cát vừa làm xong bánh rán bơ, mau đi thôi, mấy ngày trước tỷ tỷ còn khen bánh rán A ma Đa Cát làm rất ngon nữa.” Thanh Thanh vui vẻ nói.



Đa Cát nghe nói liền cười, “Thế à? Vậy lát nữa hai người nhớ mang một ít về cho đại nhân.”



“Còn cần huynh nhắc sao, ta đã sớm nói với A ma huynh rồi.” Bình An sảng khoái cười nói, nhanh chóng vung roi chạy trước.



“Đỗ Bình An! Huynh chơi xấu!” Thanh Thanh phụng phịu quát lên rồi cũng hối hả thúc ngựa chạy theo. Tiểu Hồng nhìn nhỏ nhưng lại chạy rất nhanh, chỉ một chốc đã đuổi kịp thiếu niên phía trước.



Đa Cát vừa cười vừa điều khiển ngựa thủng thỉnh đi theo sau hai người. Bầu trời xanh ngắt, từng cụm mây trắng lững lờ trôi, bốn phía thơm nồng mùi lúa chín, báo hiệu đã đến mùa thu hoạch, cũng là thời điểm đẹp nhất trên Hồi Sơn.



Đến tối lúc chuẩn bị trở về, người dân trong thôn đã chất đầy đồ ăn lên lưng ngựa của Bình An và Thanh Thanh, đa phần là món ăn dân dã cùng với rượu ủ bằng sữa ngựa, còn có cả bánh rán bơ của A ma Đa Cát làm. Hai chú ngựa nhỏ chở nặng đến nỗi chân đi loạng choạng, Đa Cát thấy thế liền chạy đi đánh một cỗ xe ngựa lại, bảo sẽ đưa bọn họ về. Thanh Thanh nghe vậy thì vui vẻ nhảy cẫng lên, vỗ tay hoan hô.



“Bình An, mấy ngày qua đại nhân ngủ có yên giấc không? Thuốc của Đạt Liệt thúc dùng được chứ?”



Bình An lắc đầu, “Vẫn vậy, tối qua ta thức dậy lúc nửa đêm thấy Mai Hương đang pha trà, đoán chừng đại nhân vẫn chưa ngủ.”



“Hai ngày nay tỷ tỷ đã khá hơn nhiều, không thấy bị ho nữa.” Thanh Thanh cười tít mắt cướp lời, “Thuốc của Đa Cát huynh rất tốt, muội cũng có uống thử, nằm xuống một cái liền ngủ tới sáng.”



“Muội không uống thuốc thì cũng ngủ thẳng đến sáng.” Bình An không nhân nhượng vạch trần muội muội nhà mình, “Thứ gì của Đa Cát mà muội không thấy tốt chứ, ngay cả thuốc cũng thử, mới mười ba tuổi đã đòi gả cho người ta, đúng là không biết xấu hổ.”



Thanh Thanh lè lưỡi, cãi lại: “Việc gì phải xấu hổ chứ, tỷ tỷ từng nói, thích ai thì nên sớm nói ra, tránh cho về sau phải hối hận. Lớn lên muội khẳng định sẽ gả cho Đa Cát, sao phải e ngại.”



Lời lẽ thẳng thắn của cô bé khiến khuôn mặt tuấn tú của thiếu niên lập tức đỏ ửng. Cậu lúng túng khụ một tiếng rồi nói: “Vậy để ta lấy thêm hai cân để hai người mang về cho đại nhân…” Dứt lời liền quay sang Thanh Thanh, “Thanh Thanh, thuốc không thể uống tùy tiện, lúc trước đại nhân rơi vào hồ băng, thân thể nhiễm hàn nên mới phải uống thuốc. Còn muội đang khỏe mạnh, uống thuốc ngược lại sẽ có hại, sau này chớ uống lung tung nữa.”



Thanh Thanh cười híp mắt, gật đầu lia lịa, tựa như Đa Cát nói cái gì cô bé cũng thấy đúng, “Biết rồi, biết rồi.”



Bình An đứng bên cạnh hừ một tiếng, bộ dạng vô cùng xem thường đứa em gái không chút khí tiết này của mình.



Đi đường khoảng hơn một canh giờ thì lên được đỉnh núi, hành cung Nạp Đạt trên đỉnh Hồi Sơn mà Yến Thế Thành xây dựng cho vương phi của mình hiện giờ đã bị bỏ không. Đại nhân ngụ trong một trạch viện nhỏ trên sườn núi, xa xa nhìn lại, tiểu viện lợp ngói xanh theo phong cách cổ nằm giữa tầng trời xanh thẳm mang dáng vẻ vô cùng tĩnh lặng. Có điều, đừng tưởng nó chỉ là một sân viện bình thường, bởi vì chỉ cần không cẩn thận tiến vào sẽ mất mạng.



“Ai đó?” Phía trước đột nhiên có người trầm giọng hỏi vọng lại.



Bình An nhảy khỏi xe ngựa, chạy lên mấy bước nói to: “Hà đại ca đó sao? Bình An đây.”



“Bình An? Sao bây giờ mới về?” Một hán tử trung niên khoảng hơn ba mươi bước ra từ trong bụi cây, đằng sau có vài người cầm xiên sắt ăn vận bình thường, trên tay một người còn xách một con thỏ rừng.



“Đại nhân đã hỏi mấy lần rồi đấy. Tối nay nhìn trời có vẻ sắp mưa, thấy hai người còn chưa trở về nên chúng ta đang định xuống núi tìm đây.” Hà đại ca vừa đi tới vừa nói, nhìn thấy Đa Cát liền cười hỏi: “Có cả Đa Cát nữa này, vết thương của a bá ngươi thế nào rồi?”



“Nhờ tay nghề nối xương của Hà đại ca mà hôm nay tay a bá đã có thể cử động rồi ạ.”



“Đều do lão Mộc Thác không nghe ta, đã nói gấu mẹ đang mang thai rất hung dữ, không thể đụng vào mà.”



Đoàn người vừa đi vừa tán gẫu, dọc đường gặp được thêm mấy nhóm nữa. Những người này chính là chiến sĩ của Tú lệ quân khi trước, hiện giờ đã cởi giáp quy điền*, phần lớn đều xây nhà sống dưới chân núi nhưng vẫn thường ngày thay phiên lên núi canh chừng. Một năm nay trở đi, trên núi yên bình hơn nhiều, tử sĩ Gia Cát gia cũng đã ít dần, không còn điên cuồng như lúc đầu nữa.



*Cởi giáp quy điền: từ bỏ nghiệp binh về làm ruộng



“Đại nhân vừa dùng bữa tối xong, đang nghỉ ngơi ở hậu viện đấy. Hai người vào nhớ nhanh đi chào, đừng để người lo lắng.”



“Biết rồi, Hà đại ca thật là càng lúc càng giống a ma của Đa Cát.” Thanh Thanh bĩu môi phụng phịu. Hà đại ca phì cười, vỗ vỗ đầu Thanh Thanh rồi mang người đi ra ngoài.



Vừa vào sân thì không cần nghĩ cũng biết sẽ nhìn thấy Hạ Tiêu trước tiên, sau lần đại nhân bị đả thương một năm trước, Hạ Tiêu liền chuyển vào sống trong viện, luôn ở trước cửa phòng đại nhân canh chừng cả ngày lẫn đêm.



Thanh Thanh từng nói với Đa Cát là cô bé và Bình An chưa bao giờ bắt gặp Hạ Tiêu ngủ cả. Có lần cô bé đến tìm đại nhân, nhìn thấy Hạ Tiêu nhắm mặt dựa vào tường thì định lặng lẽ đi qua, ai ngờ còn chưa vào trong đã bị Hạ Tiêu kéo lại, nói đại nhân ngủ rồi, có chuyện gì mai hãy nói. Lúc trước Đa Cát còn không tin, nhưng sau mấy lần đến đây thì dần phát hiện, hình như cậu cũng chưa từng thấy Hạ Tiêu chợp mắt, mà cho dù có đang lim dim thì chỉ cần có người hơi nhích lại gần cũng sẽ lập tức tỉnh lại.
Thế mà, chính tại nơi rừng thiêng nước độc, thú dữ hoành hành, nơi cằn cỗi không sự sống kia lại đột nhiên xuất hiện một thế lực sáng chói như sao băng.



Ngày 17 tháng 7 năm 778, Yến Tuân tự mình chỉ huy bảy vạn đại quân tấn công cửa Nam của Nhạn Minh Quan, lúc hắn sắp thành công chiếm giữ cửa khẩu thì phía Tây Nam lại đột nhiên xuất hiện bóng kẻ kịch. Đội quân vừa đến có thân thủ mạnh mẽ, không những anh dũng mà có tốc độ nhanh như gió, chỉ một thoáng đã xé rách cánh trái quân Bắc Yến, đập tan thế công của bọn họ. Thế nhưng, khi Yến Tuân vội vàng quay đầu ngựa chuẩn bị đánh trả thì bóng dáng kẻ địch đã biến mất, cứ như bọn họ đã tan ra thành không khí vậy.



Thật lâu sau đó, thám báo mới dò được tung tích của kẻ địch ở Thùy Vi Quan. Mà ai cũng biết, Thùy Vi Quan vốn đã bị một người gọi là ‘Thanh Hải vương’ chiếm lĩnh từ lâu.



Đối với Bắc Yến mà nói thì đây quả thực là hung tin như sấm sét giữa trời quang. Bởi vì Thùy Vi Quan giáp liền với núi Hạ Lan, chiếm giữ hoàn toàn mặt Tây sông Xích Thủy, đây cũng đồng nghĩa với, ngoại trừ người Khuyển Nhung ở Mỹ Lâm Quan thì sau lưng Bắc Yến lại có thêm một kẻ địch là Thanh Hải vương. Vấn đề càng thêm trầm trọng khi Mỹ Lâm Quan vốn do Bắc Yến nắm giữa, còn Thùy Vi Quan thì lại ở trong tay Thanh Hải vương.



Nói cách khác, Thanh Hải vương ta muốn vào Bắc Yến dạo chơi lúc nào cũng được, ngươi căn bản đừng mơ bắt được ta. Hơn nữa, Thùy Vi Quan lại nằm ở vị trí giao nhau của núi Hạ Lan và núi Thùy Vi, phía Đông là một bình nguyên rộng lớn vô cùng quang đãng, cơ bản không có bất kỳ địa thế thiên nhiên nào để lập căn cứ phòng thủ. Vì vậy, Bắc Yến muốn ngăn kẻ địch từ Thanh Hải thì cũng chỉ có thể xây tường thành dài mấy ngàn dặm dọc theo núi Thùy Vi mà thôi.



Đùa sao, xây tường thành dài mấy ngàn dặm?



Có điều, cũng may là ngoại trừ vài lần hiếm hoi lộ diện, vị Thanh Hải vương kia không hề bước ra ngoài nửa bước, tựa như mấy lần đó y chỉ là nhàn rỗi không có chuyện gì làm nên mới ra ngoài tản bộ một vòng, như để báo cho Yến Tuân biết rằng, hắn có hàng xóm đấy. Dẫu vậy thì Yến Tuân cũng không dám khinh suất, vừa liên tục phái người đến Thanh Hải thám thính tình hình, vừa cử sứ giả đến Thùy Vi Quan, hy vọng có thể thiết lập quan hệ hữu nghị với Thanh Hải vương, đồng thời còn phải chật vật bố trí tuyến phòng thủ ở hướng Tây Nam, vì vậy mới cho Đại Hạ cơ hội nghỉ xả hơi chút ít.



Mấy chuyện này đều là do đám Hạ Tiêu lần lượt nói cho Sở Kiều biết. Suốt hai năm qua, ngoại trừ một lần xuống núi hành sự, còn không thì nàng chưa hề rời khỏi nơi này.



Tiếng nước sôi *ùng ục* chợt vang lên, Đa Cát nghi hoặc cúi đầu nhìn quanh, phát hiện thì ra là từ một cái nồi nhỏ trên bếp lửa đang cháy bập bùng. Sở Kiều nghe tiếng liền vội vàng đi đến, mang bao tay vào rồi nhấc nồi lên, quay lại nói: “Ăn xong thì trở về ngủ đi, ta đi trước đây.”



Đa Cát nhìn theo thân ảnh khuất dần của Sở Kiều, nàng không trở về phòng mình mà đi về phía rừng thông. Cậu thiếu niên đứng đó, cuối cùng chỉ lẳng lặng cúi xuống gói mấy khối điểm tâm trong hộp lại, nâng niu cầm trong tay, không nỡ ăn.



Gió thổi qua rừng thông khiến lá thông kêu xào xạc, Sở Kiều đi thẳng đến một bia đá xanh, đặt chiếc nồi nhỏ xuống rồi mở nắp ra, bên trong là canh thịt dê cay.



Trước bia đá có một cái bàn bằng đá xanh, mặt đá bóng loáng, vừa nhìn liền biết là thường xuyên có người ngồi. Tấm bia đá được điêu khắc theo phong cách cổ, mặt bia có năm chữ ‘Gia Cát Nguyệt chi mộ’ thật to.



Đúng vậy, hai năm trước, Sở Kiều từng dẫn ba trăm tinh binh Tú lệ quân đến Đại Hạ để đoạt lại thi thể của Gia Cát Nguyệt.



Đó là lúc nàng nhận được tin Gia Cát gia đã trục xuất Gia Cát Nguyệt, hơn nữa thi thể hắn không được phép chôn trong mộ phần của gia tộc mà còn bị quất roi rồi tùy tiện quăng ra bãi tha ma ở phía Nam hoàng thành.



Mọi chuyện rất thuận lợi vì căn bản chẳng ai buồn chú ý đến thi thể kia cả, khi Sở Kiều tìm đến thì thi thể đã bị chó hoang cắn xé tan nát, không còn ra hình người. Nếu không nhờ những vết roi còn hằn trên da thịt thì nàng cơ hồ không cách nào thu thập lại các mảnh thi thể rời rạc kia. Bất đắc dĩ, nàng đành phải hỏa táng thi thể rồi mang tro cốt trở về Bắc Yến.



Cũng trong thời gian ngắn ngủi lưu lại trong thành Chân Hoàng, nàng mới nghe được chuyện của vị tiểu thư họ Nhạc kia. Và lần đầu tiên trong đời, Sở Kiều đã mất bình tĩnh đến như vậy, sự vô sỉ của người này khiến nàng hận đến nghiến răng nghiến lợi.



Để chứng tỏ bản thân một lòng hướng Phật, tiểu thư Uyển Di ngày ngày đều lui tới miếu tự, Sở Kiều dẫn người chặn xe ngựa của nàng ta ngay giữa đường, đích thân cạo sạch tóc nàng ta để trút giận. Nhưng khi nhìn Nhạc Uyển Di nước mắt lã chã, liên tục quỳ xin tha thứ, vẻ hăng hái trên mặt Sở Kiều đột nhiên tan biến. Tựa như đến giờ phút này, nàng mới đột nhiên ý thức được, Gia Cát Nguyệt thật sự đã không còn, hắn đã biến thành nhúm tro bụi nằm trong chiếc bình trên tay nàng. Nam nhân kia, trong lúc thân thể hắn bị chà đạp, tôn nghiêm bị sỉ nhục, ngoại trừ đau lòng thay hắn, cái gì nàng cũng không làm được. Nàng không cách nào cứu hắn, không cách nào khiến Gia Cát gia thay đổi ý định khai trừ hắn, không cách nào bảo toàn danh dự cho hắn, thậm chí cũng không thể giúp hắn toàn thây.



Sở Kiều không rõ tâm tình khi đó của mình là gì, nàng chỉ cảm thấy thế giới như đột nhiên bị bao phủ bởi một màu xám. Sau khi mang tro cốt của Gia Cát Nguyệt trở về Thượng Thận, nàng chưa từng xuống núi thêm lần nào nữa, dành toàn bộ thời gian của mình quanh quẩn trong khoảnh sân nhỏ bé này.



“Gia Cát Nguyệt, ở dưới đó ngươi bây giờ nhất định đang rất hả hê có đúng không? Ta nghe Hạ Tiêu nói, Đại Hạ các ngươi ở Nhạn Minh Quan lại bị thua trận, tên Ngụy Thư Diệp kia vốn chẳng phải đối thủ của Yến Tuân, không có ngươi, Đại Hạ ăn khổ không ít. Ngươi ngoài mặt luôn vờ dửng dưng, gì cũng không để ý, nhưng ta biết, người như ngươi thù dai hơn ai hết. Ngươi bây giờ khẳng định đang nghĩ: Đáng đời lũ khốn kiếp các ngươi! Không có ông đây, đám các ngươi chỉ là bị thịt mà thôi.” Sở Kiều vừa dùng đũa khuấy thịt dê trong nồi, vừa từ tốn nói.



Nàng cúi đầu, tóc rũ xuống hai bên che khuất khuôn mặt trắng trẻo mịn màng. Ánh trăng trên cao xuyên qua tán lá thông chiếu xuống trên mặt đất để lại những cái bóng loang lổ, bàng bạc, lạnh lẽo như băng.



“Gia Cát Nguyệt, tối qua ta vẫn không mơ thấy ngươi, có phải ngươi vẫn chưa chết hay không vậy? Bằng không sao lại vô lương tâm thế hả, xuất hiện một lần trong mộng khó khăn lắm sao? Đừng nói ngươi đang hờn dỗi vì không ai báo thù cho mình đấy chứ? Nhân tiện nói tới chuyện này, nhân duyên của ngươi sao lại kém như vậy? Ở ngoài hô mưa gọi gió lâu như vậy nhưng chỉ có được vài thuộc hạ trung thành, suốt ngày mù quáng cầm đao chạy tới tìm ta. Bất quá, may mà bọn họ khờ khạo, nếu đi tìm Yến Tuân tính sổ thì không chừng mạng cũng chẳng còn.”



Nồi canh dần dần hết nóng, thịt dê trong nồi cũng bắt đầu đông lại, Sở Kiều vẫn tiếp tục lẩm bẩm: “Hôm qua ta vừa đốt ít tiền vàng cho ngươi, ngươi có nhận được không? Trước kia ngươi đối xử với ta rất tốt, ta không có gì để báo đáp, cũng chỉ có thể đốt mấy thứ này cho ngươi mà thôi. Ngươi xuất thân từ thế gia, từ nhỏ đã bị chiều hư rồi, y phục đưa tới tay, cơm đưa tận miệng, xuống dưới đó không có tiền thì biết làm sao? Có điều, chắc cũng không sao, ngươi mang nhiều tiểu đệ theo cùng như vậy, cho dù đến âm phủ cũng có thể tiếp tục chỉ tay năm ngón chờ người hầu hạ.”



“Gia Cát Nguyệt, ngươi có biết Mặc Nhi đi đâu không? Ta đã nhiều lần phái người đến thành Chân Hoàng nhưng vẫn không tra ra tung tích của thằng bé, người của ta về báo là mất tích rồi, đừng nói là bị người cha như ngươi vứt bỏ giữa đường chứ? Mặc Nhi còn nhỏ như vậy, tình thế lại thực đáng thương, ngươi ở dưới đó có nhìn thấy thằng bé thì nhớ báo mộng cho ta biết một tiếng, cũng đỡ cho ta phải đi khắp nơi tìm kiếm.”



Một cơn gió thổi qua khiến nước đọng trên lá cây rơi tõm vào trong nồi, Sở Kiều như vẫn còn miên man trong giấc mộng, vẻ mặt rất bình tĩnh, nhìn không hề có chút khổ sở thương tâm nào. Nàng lẳng lặng đều giọng nói, tiếng rất nhỏ nhưng trong màn đêm yên tĩnh lại vô cùng rõ ràng.



“Gia Cát Nguyệt, thật ra tối qua ta không hề ngủ, ta mở to mắt nhìn trần nhà cả đêm, nghĩ đi nghĩ lại chuyện ngày đó. Ta thật ra có rất nhiều cơ hội cứu ngươi, đầu tiên, lúc ấy ta hẳn nên nhờ Hạ Tiêu hộ tống giúp ta và ngươi giả vờ cùng rời đi, sau đó chúng ta chia ra thành hai mươi hướng khác nhau đánh lạc hướng truy binh rồi lén trở về thành Cống Duyệt, chờ qua bão lại tìm cách trốn thoát sau. Hai là lúc ở hồ Thiên Trượng, ta hẳn nên dẫn quân đánh thẳng vào cánh phải, chỗ cung thủ dàn hàng, cho kỵ binh chạy qua chạy lại hai lượt đã có thể khiến bọn họ náo loạn, như vậy ngươi sẽ có thời gian trốn thoát rồi. Thứ ba, vì sao lúc ấy ta lại không trực tiếp đến bắt Yến Tuân làm con tin chứ? Ta cứ việc tươi cười đi qua đó, Yến Tuân chắc chắn sẽ không nghi ngờ. Khi đó dường như đầu óc ta bị nhúng nước rồi hay sao ấy. Chưa kể, cuối cùng ngươi còn đẩy ta lên làm gì, trong tay ta có chủy thủ, chúng ta bơi ra cách đó vài trăm mét, sau đó dùng chủy thủ phá băng trèo lên là được rồi, nước hồ tuy rất lạnh nhưng cũng không lập tức khiến chúng ta bị đông cứng mà. Lúc tàu Titanic bị chìm, Jack còn cầm cự được lâu như vậy, huống chi là người luyện võ như ta và ngươi.”



Sở Kiều ảo não lầm bầm: “Sao lúc đó ta lại không nghĩ đến những điều này nhỉ?”



Ban đêm yên ắng đến độ có thể nghe được tiếng chó sủa dưới chân núi, tất cả mọi người đều đã ngủ say, chỉ còn một mình nàng vẫn ngồi đây thì thầm.



Sở Kiều nói một lúc lâu rồi đột nhiên đứng dậy gõ mạnh lên mộ bia của Gia Cát Nguyệt, lớn tiếng hỏi: “Này, ta đang nói chuyện với ngươi đấy, ngươi có nghe thấy không vậy?”



Tiếng gõ của nàng nghe văng vẳng trong rừng thông, Sở Kiều hỏi xong lại bất chợt ngây người ngồi xổm xuống bên bia mộ, mặt lộ vẻ buồn bã. Nàng lại cúi đầu, mặc cho tóc rũ xuống hai bên che khuất mặt.



Tiếng thì thầm ủ rũ của nàng lại vang lên trong không trung, “Ta rõ ràng có nhiều biện pháp như vậy, nhưng tại sao vẫn không thể cứu được ngươi?”



Đêm khuya lạnh lẽo, gió mơn man thổi qua người, Sở Kiều tựa người bên bia mộ, bất động một lúc lâu. Lá cây trong rừng đã bắt đầu úa vàng, mỗi khi có gió thổi qua liền rơi rụng lả tả.



Khung cảnh giống như rất nhiều năm trước, bọn họ từng tựa lưng vào nhau như vậy, bóng đêm mịt mù vây quanh. Bốn phía đều là kẻ địch nhưng bọn họ đã dựa lưng vào nhau, kề vai chiến đấu ăn ý tựa như một thể vậy.



“Gia Cát Nguyệt, đây chính là số mạng của chúng ta…” Sở Kiều thấp giọng thì thầm, trên không trung chợt có tiếng chim đêm kêu thổn thức, âm thanh văng vẳng bay xa.



Sở Kiều từng cho rằng, vận mạng sẽ khiến nàng cứ như vậy mà sống. Nhưng sáng sớm hôm sau, một tin tức ngoài dự tính đã nhất thời phá hủy cuộc sống tĩnh lặng của nàng.