Kẻ Mạo Danh
Chương 47 :
Ngày đăng: 15:12 19/04/20
Sáng hôm sau, khi Fraser Munro tới gặp Danny tại phòng của anh, ông tìm thấy thân chủ của mình đang mặc áo ngủ ngồi xếp bằng trên sàn nhà, xung quanh bày bừa những tờ giấy, một chiếc laptop và một chiếc máy tính.
“Rất xin lỗi đã làm phiền ông, Sir Nicholas. Tôi có thể quay lại sau được không?”
“Không, không,” Danny vừa nói vừa đứng dậy, “mời ông vào.”
“Tôi chắc ông đã ngủ ngon?” Munro nói trong khi nhìn xuống đống giấy đang bày bừa trên sàn.
“Tôi thậm chí còn không lên giường,” Danny thừa nhận. “Tôi đã thức cả đêm qua để kiểm tra đi kiểm tra lại các con số.”
“Vậy ông đã trở nên thông thái hơn chưa?” Munro hỏi.
“Tôi hy vọng là vậy,” Danny nói, “vì tôi có cảm tưởng Gene Hunsacker chẳng hề phải mất ngủ để tự hỏi cả bộ sưu tập này đáng giá bao nhiêu.”
“Vậy ông đã có ý tưởng nào...?”
“Xem đây,” Danny nói, “bộ sưu tập bao gồm hai mươi ba nghìn một trăm mười một con tem, được mua về trong một khoảng thời gian hơn bảy mươi năm. Ông nội tôi đã mua con tem đầu tiên của mình vào năm 1920 khi mười ba tuổi, và ông tiếp tục sưu tập cho tới năm 1998, chỉ vài tháng trước khi qua đời. Tổng cộng, ông đã bỏ ra mười ba triệu, bảy trăm hai mươi chín nghìn bốn trăm mười hai bảng.”
“Không lạ khi Hunsacker nghĩ đó là bộ sưu tập quý giá nhất thế giới,” Munro nói.
Danny gật đầu. “Một số con tem thuộc loại hiếm đến khó tin. Có thể kể ra con tem mệnh giá một cent của Mỹ bị in ngược hình ở giữa phát hành năm 1901, một con tem Hawaii màu xanh da trời mệnh giá hai cent phát hành năm 1851, và một con tem Newfoundland mệnh giá hai penny màu đỏ sẫm phát hành năm 1857 mà ông đã trả 150 nghìn bảng vào năm 1978. Nhưng niềm tự hào của bộ sưu tập hẳn phải là con tem mệnh giá một cent của Guiana thuộc Anh in mực đen trên nền đỏ tươi phát hành năm 1856, mà ông đã mua tại một phiên đấu giá vào tháng Tư năm 1980 với giá 800 nghìn bảng. Đó là tin tốt,” Danny nói. “Tin không được tốt bằng là sẽ phải mất một năm, thậm chí lâu hơn, để định giá toàn bộ số tem. Tất nhiên Hunsacker biết rõ điều này, nhưng may mắn cho chúng ta là ông ta không muốn rình rang đợi thêm một năm nữa, bởi vì trong số những thứ khác tôi tìm hiểu được từ bài báo lạ lùng ông nội tôi giữ lại là Hunsacker có một đối thủ, một ông Tomoji Watanabe nào đó, một người mua bán hàng hóa ở Tokyo. Có vẻ,” Danny vừa nói vừa cúi xuống cầm lên một bài báo cũ cắt ra từ Time Magazine, “đây là vấn đề đánh giá xem bộ sưu tập nào trong số hai bộ sưu tập của hai người bọn họ chiếm vị trí thứ hai sau bộ sưu tập của ông nội tôi. Cuộc tranh cãi này sẽ đi đến hồi kết ngay khi một trong hai người có được thứ này,” Danny vừa nói vừa giơ cuốn danh sách của bộ sưu tập lên.
“Như vậy tôi có thể đoán rằng thông tin đó,” Munro nói, “đặt ông vào một vị thế rất thuận lợi.”
“Có thể,” Danny nói, “nhưng khi ta xem xét đến mức độ giá trị này - chỉ tính toán sơ sơ thôi cũng thấy bộ sưu tập chắc chắn phải trị giá vào khoảng năm mươi triệu đô la - sẽ có rất ít người trên cả trái đất này, mà trong trường hợp này tôi ngờ chỉ có hai người, có khả năng cân nhắc đến việc tham gia trả giá, vì thế tôi không thể làm giá quá mức.”
“Tôi không hiểu,” Munro nói.
“Hãy khi vọng tôi không rơi vào tình thế đó khi ván poker này đã bắt đầu, bởi vì tôi ngờ rằng nếu người tiếp theo gõ cửa không phải là người phục vụ mang bữa sáng tới, thì đó sẽ là ông Gene Hunsacker đang hy vọng mua được bộ sưu tập tem mà ông ta đã theo đuổi suốt mười lăm năm qua. Vì thế tốt hơn tôi cần tắm rửa mặc quần áo ngay. Tôi không muốn ông ta nghĩ tôi đã phải ngồi thức trắng cả đêm để tìm ra nên rao giá bao nhiêu.”
***
“Làm ơn cho gặp ông Galbraith.”
“Tôi phải nói là ai đang gọi ạ?”
“Hugo Moncrieff.”
“Tôi sẽ nối máy cho ngài ngay, thưa ngài.”
“Ông tiến triển ra sao ở Geneva?” là câu hỏi đầu tiên của Galbraith.
“Chúng tôi ra về tay không.”
“Cái gì? Tại sao lại có thể như vậy được? Ông đã có mọi giấy tờ cần thiết để chứng thực cho yêu cầu của mình, kể cả di chúc của bố ông.”
“De Coubertin nói bản di chúc là giả mạo, và gần như đã tống cổ chúng tôi ra khỏi văn phòng của lão.”
“Nhưng tôi không hiểu gì cả,” Galbraith nói, vẻ thực sự ngạc nhiên. “Tôi đã đem nó đến các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực để giám định, và nó đã vượt qua mọi hình thức kiểm tra đã được biết đến.”
“Thế ư, de Coubertin rõ ràng không đồng ý với vị chuyên gia hàng đầu của ông, vì thế tôi gọi điện để hỏi ông bước tiếp theo chúng ta nên làm gì.”
“Tôi sẽ lập tức gọi cho de Coubertin, và khuyên ông ta chuẩn bị đối mặt với một đơn kiện cả ở London và Geneva. Điều đó sẽ khiến ông ta phải suy nghĩ cẩn thận trước khi tính chuyện giao dịch với bất cứ ai khác trước khi tính xác thực của bản di chúc được phán xử trước tòa.”
“Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần tiến hành công việc còn lại mà chúng ta đã trao đổi trước khi tôi bay đi Geneva.”
“Ông ta sẽ không bao giờ thừa nhận đã từng gặp chú ông, chứ chưa nói đến việc đã từng xem qua di chúc của ông nội ông. Tuy thế, bây giờ khi ông đã có gần sáu mươi triệu đô la trong tài khoản, tôi đoán ông sẽ muốn tôi kháng cáo lại mọi cáo buộc?”
“Tôi không rõ Nick sẽ làm gì,” Danny lúng búng trong khi ngủ thiếp đi.
Munro nhướng một bên mày, nhưng không hỏi dồn thân chủ của mình thêm nữa khi nhớ ra Sir Nicholas đã thức trắng cả đêm hôm trước.
Danny giật mình tỉnh dậy khi càng hạ cánh của máy bay tiếp đất tại Heathrow. Anh và Munro nằm trong số những hành khách đầu tiên rời máy bay. Khi xuống cầu thang, họ ngạc nhiên trông thấy ba cảnh sát đứng chờ dưới đường băng. Munro nhận ra họ không mang theo súng tiểu liên, vậy đây không phải là nhân viên an ninh sân bay. Danny vừa đặt chân xuống bậc thang cuối cùng, hai cảnh sát lập tức giữ lấy anh, trong khi người thứ ba bẻ quặt tay anh ra sau lưng và còng lại.
“Ông đã bị bắt, Moncrieff,” một trong ba người nói với anh trong khi họ giải anh đi.
“Vì lý do gì?” Munro hỏi, nhưng ông không có được câu trả lời vì chiếc xe cảnh sát đã rú còi lao đi.
Danny đã trải qua hầu như mỗi ngày kể từ lúc được thả tự hỏi mình đến khi nào người ta sẽ bắt được anh. Điều ngạc nhiên duy nhất là họ gọi anh là Moncrieff.
***
Beth không còn chịu đựng nổi nữa khi nhìn bố nàng, người nàng đã không nói chuyện nhiều ngày qua. Bất chấp những lời cảnh báo của bác sĩ, nàng vẫn không thể tin ông có thể trở nên tiều tụy như thế chỉ sau một thời gian ngắn.
Cha Michael đã đến thăm người con chiên của mình hàng ngày từ khi ông nằm liệt giường, và sáng hôm đó ông đã yêu cầu mẹ Beth tập hợp cả gia đình cũng như các bạn bè thân thiết đến bên giường buổi tối hôm đó, vì ông không thể trì hoãn tiến hành những nghi thức cuối cùng lâu hơn nữa.
“Beth.”
Beth giật mình ngạc nhiên khi bố nàng gọi. “Vâng, bố,” nàng nói, đưa tay nắm lấy tay ông.
“Ai đang trông coi gara?” ông hỏi bằng giọng phều phào hầu như không còn nghe rõ.
“Trevor Sutton,” nàng khẽ trả lời.
“Cậu ta không đủ khả năng. Con cần chỉ định người khác, và thật sớm.”
“Con sẽ làm, bố,” Beth ngoan ngoãn trả lời. Nàng không thể cho ông biết chẳng ai khác muốn đảm nhiệm công việc.
“Chỉ có con và bố thôi phải không?” ông hỏi sau khi im lặng hồi lâu.
“Vâng, bố. Mẹ đang ở phòng ngoài nói chuyện với bà...”
“Bà Cartwright?”
“Vâng,” Beth xác nhận.
“Cảm ơn Chúa vì lương tâm của bà ấy,” Bố nàng ngừng lại lấy hơi trước khi nói thêm, “mà con đã được thừa hưởng.”
Beth mỉm cười. Giờ đây thậm chí nói vài lời cũng đã là quá sức với ông. “Hãy nói với Harry,” đột nhiên ông nói, giọng ngày càng yếu dần, “bố ước gì được gặp cả hai trước khi bố chết.”
Beth đã không còn nói “Bố sẽ không chết” trước đó một thời gian, và chỉ nói thầm vào tai ông, “Tất nhiên con sẽ nói, bố.”
Một lúc lâu sau, ông lại cố gắng thở lấy hơn trước khi thì thầm, “Hãy hứa với bố một điều.”
“Bất cứ điều gì.”
Ông nắm chặt lấy tay con gái. “Con sẽ tranh đấu để lấy lại sự trong sạch cho nó.” Nắm tay của ông yếu dần, rồi tay ông buông ra.
“Con sẽ làm,” Beth nói, dù nàng biết ông không thể nghe thấy nữa.