Kí Ức Của Một Người Lính Trinh Sát Sư 307
Chương 43 :
Ngày đăng: 01:15 19/04/20
RỪNG KHỘP, CON ĐƯỜNG ĐẾN CHHEP VÀ TRẬN
ĐÁNH DAM PHIEP
Qua
một đêm dài như bất tận tại trận địa, đội hình lại tiếp tục lên đường.
Sáng
ngày 9/ 1, đội hình trợ chiến của chiến dịch và sư đoàn, dưới sự hỗ trợ của e29
hành quân tiếp cận với e95. Những chiếc tăng và thiết giáp của e574, lần lượt dừng
lại phía sau chúng tôi chừng 50 m, những anh lính tăng ngồi trên xe, nhìn chúng
tôi có vẻ tư lự. Tôi bước đến chưa kịp hỏi gì, thì anh pháo thủ ném cho gói thuốc
Đà Lạt và hỏi “Hôm qua đánh dữ lắm phải không? Tôi mất ba thằng đồng hương rồi.”
Anh này dân Mộ Đức Quảng Ngãi. Tôi thuật lại cho anh diễn biến trận đánh, trông
gương mặt anh có vẻ buồn lắm.
Tại
SCH e95 có cuộc họp phân công nhiệm vụ giữa các đơn vị, và đội hình hành tiến về
thị trấn Chhep như sau:
1.
Tăng (2c) + thiết giáp (4c) + tăng (3c) + xe sửa chữa tăng (2c).
2.
dBB2 + dBB3 + Trợ chiến e95 + Pháo binh + dBB1.
Tôi
và ba trinh sát f đi trên chiếc tăng đầu tiên, cùng anh thông tin PRC 25, khi
giao nhiệm vụ cho tôi, TMT e95 có nói là luôn theo dõi mức hành tiến, xác định
các tọa độ dọc hai bên đường, để khi cần là gọi pháo ngay (khi đến Chhep, tôi mới
biết là có một đơn vị pháo vẫn còn ở trận địa ngày 8/ 1 do e29 bảo vệ và sẵn
sàng chờ lệnh).
Khoảng
tám giờ đội hình xuất phát.
Nắng
đã lên và đường bụi mù khi xe chạy qua... Hơi thở chưa kịp ra khỏi mũi khỏi miệng,
hình như đã bị rút kiệt hơi nước làm cho đặc lại. Bụi đất chỉ chờ hé miệng ra
là đã tràn vào, nên giọng nói cứ lao khao, ram ráp.
Hai
bên đường phần lớn chỉ có các loại cây họ dầu lá rộng, rụng lá vào mùa khô, xen
kẽ là những cụm bằng lăng trắng... Đang là thời kì cao điểm của mùa khô, rừng
khộp trụi lá, ngỡ như là... rừng chết, không còn thấy màu xanh, chỉ thấy những
thân cây sần sùi xám mốc, những cành nhánh khẳng khiu, trơ trụi lá và nắng như
đốt bỏng da người... Bởi sắc vàng lấp lánh miên man khắp cánh rừng. Bởi những
chiếc lá vàng rụng chấp chới, ngập ngừng trong nắng nghiêng ban mai.
Xe
vượt qua những vùng khô cằn bỏ hoang, mặt đất là các loại cỏ, le và cây con mọc
dày đặc. Cỏ cháy vàng suộm, khô giòn từng đồi, từng cánh đồng nhìn mà nhức cả mắt.
Khi
còn ở XA – XB, những cánh rừng khộp mới ngày nào còn mơn mởn, tươi xanh, trên
đường đi trinh sát địch, vẫn dừng chân bên các bờ suối của cánh rừng khộp mà
nghỉ. Thế mà giờ đây, chỉ sau vài tháng, những cánh rừng khộp như vừa qua cơn bệnh
trọng... Rừng khộp có lẽ là nơi cảm nhận được hết cái khốc liệt của mùa khô. Suối
trơ đáy. Gió hình như không thể đến được nơi này…
Anh
xạ thủ trên tăng luôn quan sát hai bên đường, tay đặt vào súng, mặt như đanh lại…
thỉnh thoảng đưa tôi bi đông nước của anh, tôi cũng tranh thủ làm vài nắp cho đỡ
khô họng.
Súng
máy M113 bắn vào hai bên đường liên tục, anh em BB cũng bắn cầm chừng những nơi
nghi vấn, và cả tuyến đường đến Chhep chúng tôi không gặp sự kháng cự của địch.
Khoảng
Khoảng
mười một giờ trưa, chúng tôi đến thị trấn Chhep (trên bản đồ thuộc tỉnh Preah
Vihear) khi cách Chhep khoảng 2 km, tôi nhìn thấy bên vệ đường có bóng người
dân đứng cạnh đường, TMT e95 lệnh cho trinh sát nhảy xuống xe, cùng với d3 bám
theo hai bên đường, yểm trợ cho đội hình tiến vào thị trấn Chhep.
Men
theo vệ đường cùng các anh em c9, tôi gặp một gia đình người dân gồm hai vợ chồng
và hai đứa con, khi gặp chúng tôi, người chồng khoảng năm mươi tuổi khóc một
cách đáng thương, như chưa bao giờ được khóc. Ông nói tiếng Việt trong tiếng nấc
“Tôi chờ bộ đội mình mấy năm nay rồi.” Ông chỉ vào hai đứa nhỏ cũng khoảng trên
dưới mười tuổi và nói “Giống nòi của mình đó các chú!” Chúng tôi nhìn hai đứa
nhỏ mà lòng xúc cảm khi nghe hai chữ “giống nòi.” Con cháu dòng giống Lạc Hồng mà
như những con ma đói, thê lương như thế này sao? Ông năn nỉ cho gia đình ông đi
theo bộ đội, vì nếu ở lại, chúng biết ông là người Việt chúng nó sẽ giết, và
chúng tôi cho ông đi theo ở phía sau cuối đội hình c9.
Thị
trấn Cheep thì không sung túc bằng nếu so với Thala, nhưng cũng là một thị trấn
khá lớn, với những dãy nhà và các con đường ngoằn ngoèo trong Phum.
Trong
Phum dân tụ tập khá đông chắc khoảng một nghìn người, và nhìn dân ở đây chúng
tôi mới có khái niệm về đất nước bị diệt chủng, cũng như sự diệt vong của một
dân tộc. Trước mắt chúng tôi là những con người sao? Làm sao tin họ là những
con người của thế kỉ XX nổi đây? Những thây ma chờ chết không hơn không kém… những
con người chỉ còn da bọc xương, con mắt to hơn cái bụng… trên thân hình những lằn
gân xanh nổi lên… Phụ nữ với những đôi mắt đẹp, đượm vẻ buồn man mác… những đứa
trẻ con… nhìn cái đầu, mới biết các em là người.
Qua
tiếp xúc với gia đình người dân khi nãy, chúng tôi biết được hoàn cảnh của ông
như sau: Ông là người dân Long An (huyện gì có chữ Hưng…) qua Phnôm Pênh làm ăn
buôn bán, sau đó trôi dạt về miền Nam Campuchia làm nghề đánh cá trên Biển Hồ,
cưới một người phụ nữ Việt Nam dân Hồng Ngự, sinh được hai đứa con, thời Lon
Nol tàn sát dân mình, ông trốn lên Preah Vihear sinh sống, bà vợ người Việt bị
bệnh chết năm 1974, ông nuôi hai đứa con… năm 1977 Ăngka cưới vợ cho ông, và
người vợ chúng tôi gặp là người vợ Campuchia, kém ông khoảng hai mươi tuổi, nên
bà không biết nói tiếng Việt.
Nhìn
kĩ hai đứa trẻ, đúng là mang hình dáng của người Việt, vẫn còn nét đẹp giống
người mẹ miền Tây Nam Bộ, chỉ có điều nhìn thân xác kia, không ai có thể tin là
giống nòi Lạc Hồng.