Kí Ức Của Một Người Lính Trinh Sát Sư 307

Chương 82 :

Ngày đăng: 01:15 19/04/20


ĐÔI DÒNG KỈ NIỆM VỀ THỦ TRƯỞNG NGUYỄN

HỮU HÀ.



Cuối

năm 1980, e95 có mở một lớp tập huấn cán bộ cấp a, b của trung đoàn. Từ khu chiến

d2, tôi được BTM e95 rút về, để truyền đạt một số kĩ năng sử dụng bản đồ cùng với

anh Lập c trưởng trinh sát e95 cho lớp tập huấn này. (Lớp trưởng là anh Lê Duy

Hoa, một trong những anh em còn lại của c2 d1 sau trận ngày 8/1 ở bờ tây sông

Mêkong). Tôi được phân công ở cùng phòng với anh Đỉnh (trợ lí ban tác huấn) khi

đó là phụ trách lớp (trung úy Đỉnh là sỹ quan duy nhất của e95 xuất thân từ trường

SQLQ 1 Sơn Tây).



Một

buổi chiều sau giờ cơm… tôi ngồi trước dãy nhà ban tác huấn đọc lá thư thứ hai

của người bạn gái cùng lớp, tôi mới nhận hồi chiều… (lần đầu tiên cô nàng đổi đại

từ nhân xưng với tôi…)



“… Chiều về trên biển Phương Mai - Quy Nhơn… Em

ngồi một mình lắng nghe tiếng sóng biển, lắng nghe những kỉ niệm ngày xưa hiện

về trong kí ức.



Này

sóng ơi! Sóng đang ca bài ca gì thế… bài ca của sóng khó hiểu quá… sóng vẫn lặng

thầm ca bài ca muôn thuở…



Cũng

chính nơi đây, giữa tiếng sóng của một đêm trăng sáng… tim em rung động lần đầu

tiên, cảm nhận thầm yêu một người… Anh và em cùng ngồi trên tảng đá bên bờ nước,

chúng mình không ai bận tâm đến những con sóng dạt vào người, và bọt nước làm ướt

sũng quần áo… chỉ lắng nghe rất say sưa những tiếng sóng dập dìu vút lên cao, rồi

lại rơi ào xuống… Sóng trườn lên bãi cát trắng tinh, vuốt ve lên đôi chân trần

của em và của anh. Ngày đó, anh chỉ thích nhìn mặt trăng… khi từ từ nhô lên khỏi

mặt nước…còn em, em chỉ thích nghe tiếng sóng biển, nghe tiếng đập thổn thức của

con tim em. Anh vẫn vô tư hay nói đúng hơn là anh vẫn vô tâm… Anh vẫn cứ thích

nhìn, thích nghe tiếng sóng vỗ mạnh vào vách đá đằng xa kia, làm phát ra những

âm thanh rung tai, kéo theo những bọt nước trắng tinh lấp lánh dưới ánh trăng…

khi chúng tung lên…



Anh

đâu biết rằng, chính những âm thanh mạnh mẽ nhất từ con sóng, đã làm đứt gãy và
bình thường thời ấy. Nhưng là thủ trưởng nên ông cũng lướt qua cho có đọc, có lẽ

ông cũng không muốn đọc hết làm gì).



Ngồi

ở đó tâm sự, tôi mới biết rằng ông cũng là con người rất yêu thơ. tôi có chép lại

bài thơ “Lá chanh” do ông đọc, nhưng nay thì không còn nữa nên không viết ra

đây được (bài thơ cảm nhận về vẻ đẹp của người con gái khi tắm (hay gội) bằng

nước chanh thì phải…)



Ông

đã kể chuyện về thời trai trẻ của ông trên đường Trường Sơn.



Ngày

ấy, thơ là thiêng liêng, là máu thịt, là nơi duy nhất để tỏ bày, gửi gắm điều

chi. Trên đường Trường Sơn hành tiến về Nam, anh bộ đội hay cô thanh niên xung

phong, đều có cuốn sổ nhỏ chép những bài thơ mà họ yêu thích. Thơ là người bạn

gần gũi với số phận người lính, với cái sống và cái chết của người lính, cả

trong nỗi đau và khát khao cần được chia sẻ. chính thơ đã đưa những điều cộng cảm

đến với con người. Trong những bài thơ ông đọc, tôi chỉ biết có bài: Màu tím

hoa sim của Hữu Loan.



Chính

ông cũng đưa ra những suy nghĩ về thơ…



Thơ

trong chiến tranh lúc giống như người yêu, lúc giống như người đồng đội, lúc lại

giống đôi mắt buồn thăm thẳm của người mẹ. Nó bất chợt như bàn tay mẹ xoa trên

lưng con một chiều trước hôm tiễn biệt. Nó như giọt nước mắt người ta yêu, rơi

lặng lẽ lúc đoàn xe chở quân… vang lên tiếng còi trong một buổi sáng mua đông

giáp Tết năm nào. (Ông thoát li gia đình vào chiều 28 tết). Dòng thơ mập mờ ẩn

hiện theo nhịp rung đều đều của con tàu chở quân ra mặt trận…





nhiều cảm nhận nữa mà tôi không thể nhớ hết... Thời trai trẻ có ai nghĩ rằng những

kỉ niệm sẽ là phần còn lại duy nhất của đời sống con người. Nhà văn nào đó đã

viết như vậy.



Đang

say sưa nói chuyện về thơ, thì anh công vụ đến mời ông về họp với Phó chính ủy

Vũ Minh Thái (nay là Chủ tịch hội CCB huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi)…



Chia

tay tôi, ông hẹn một ngày nào đó sẽ tiếp tục câu chuyện. Nhưng rồi nhiệm vụ và

môi trường công tác, cả tôi và ông đều bị cuốn sâu vào công việc, nên không có

điều kiện để nói chuyện về thơ văn với nhau nữa.





lần cuối cùng tôi nói chuyện với ông là sau trận đánh 547 (4/ 1984), trước khi

tôi và năm mươi anh em khác chuẩn bị ra quân, vì thiếu điều kiện để thực hiện “chế

độ một thủ trưởng.” Khi đó ông là Phó Tư lệnh về Chính trị, Bí thư Đảng ủy Sư

đoàn 307.