Kim Sơn Hồ Điệp

Chương 163 :

Ngày đăng: 13:28 19/04/20


“Đúng thế, trước kia nằm ở ngay đây.” Ông chủ cửa hàng Tương Kí chỉ vào lùm cây cạnh vách đá biển, “Ông nội tôi bảo, hơn bốn mươi năm trước, bà Chu nhặt ve chai ở mũi D’Aguilar đã nhặt được đứa bé sơ sinh đó ở dưới gốc cây kia. Da rất trắng, tóc màu vàng nhạt, đôi mắt xanh tròn xoe mở to. Rất bẩn, nhưng bà Chu cảm thấy đó chính là thiên thần ông trời ban cho bà. Tên của đứa bé đó còn do ông nội tôi đặt, có điều ông cũng không biết chữ nhiều, đúng lúc trên chăn uyên ương thêu bốn chữ ‘cầm sắt cùng vang’, thế là chọn ra chữ đầu tiên, gọi đứa bé đó là Cầm. Vì trong tả của nó có một miếng thẻ sắt nho nhỏ, bên trên khắc chữ ‘Phó’ xiêu vẹo, nên về sau mọi người đều gọi nó là Phó A Cầm, Phó A Cầm.



A Cầm càng lớn càng giống người Hoa, nhưng mũi cao mắt sâu, nhất định cha mẹ có người là người da trắng. Cô ấy chỉ biết nói tiếng Quảng, cũng không biết chữ. Từ nhỏ đi theo bà Chu nên sống cũng không dễ dàng gì, không có cơ hội đọc sách. Tính tình hiền thục, không thích nói nhiều, gặp ai cũng cười, không giống một kẻ nước ngoài, trái lại càng giống cô nương ngây ngô trong thôn hơn. Cô ấy hiền lắm, mấy thím trong thôn gọi cô ấy nhờ đi hái trái cây hay nhổ cỏ, cô ấy cũng chưa bao giờ từ chối. Người dân trong thôn đối xử với A Cầm rất tốt, luôn cảm thấy cô ấy chính là người Trung Quốc.”



“Năm cô ấy mười bảy tuổi, bà Chu qua đời. Người trong thôn và cô ấy cùng mai táng bà, lại nhớ ra bây giờ cô ấy chỉ côi cút một mình, không biết có thể dựa vào gì để tự nuôi sống mình. Mọi người bèn bảo cô ấy ra ngoài làm công đi, có điều Hương Cảng rất loạn, cô ấy lại đẹp như vậy, nếu không cẩn thận thì sẽ bị lừa. Vừa hay bà Mạch có ông anh họ làm trong khách sạn cao cấp ở Trung tâm, bèn nhờ người chạy chọt cho cô ấy một chân phục vụ ở đó. Nói là phục vụ, nhưng cô ấy vụng về không biết làm, đa phần đều ngồi trong phòng khách khách sạn, hầy, đúng là đẹp có cái tốt của cái đẹp. Cô ấy khá ngốc, lại ít nói, nhưng được cái rất khỏe. Chính tại nơi đó, cô ấy gặp được người Mỹ tên là Harold, tóc vàng mắt xanh, là một người đàn ông anh tuấn rất hiếm gặp trong phim Mỹ. Người kia theo chủ nghĩa chống thực dân, ghét kiều dân nước Anh và là người thuộc đảng Cộng hòa Mỹ, thế nhưng lại rất say mê Hương Cảng.”



“Tình yêu của bọn họ quả thật không lạ gì ở Hương Cảng. A Cầm yêu một người da trắng có tiền, có địa vị, có tướng mạo là chuyện đương nhiên thôi. Mà vì sao Harold lại yêu A Cầm, ngay từ đầu mọi người cũng hiểu. Trong mắt người ngoài, A Cầm chính là kiểu tình nhân mà người da trắng bại hoại thích tìm vui ở Viễn Đông, A Cầm là một tờ giấy trắng, còn anh ta muốn tô vẽ lên trên. Mọi người đều thế cả. Anh ta chỉ vui đùa mà thôi, cũng không thèm để ý đến người phụ nữ thực dân này sẽ ra sao sau khi mình rời đi, nói không chừng anh ta đã có vợ ở Mỹ rồi, có lẽ ở Hà Nội hay Singapore cũng có một người phụ nữ như thế. Bọn họ bị xã hội chỉ trỏ như tất cả các cặp đôi khác, thậm chí đến A Cầm cũng tin chuyện là như thế, nhưng cô ấy đã dấn thân quá sâu, không thể dứt ra nổi.”



“Chưa lập gia đình mà mang thai là số mệnh bi thảm nhất của kiểu phụ nữ như vậy. A Cầm không có ai dạy dỗ, không biết chuyện này, ba tháng sau mới biết mình mang thai. Cô ấy không nói với bất kỳ ai, một mình quay về Shek O, tìm đến một nhà ngư dân nấp vào, mỗi cuối tuần sẽ đi chợ mua chút đồ bổ, sữa bò hết hạn hoặc là mấy quả trứng gà. Chính là lúc đó, trong thôn có người gặp được cô ấy. A Cầm lúc đó hơi mập, cơ thể hơi phù. Cậu biết đấy, A Cầm có dòng máu của người da trắng, chỉ cần bề ngoài thay đổi thì bọn tôi cũng khó mà nhận ra. Gọi tên cô ấy, cô ấy hốt hoảng né tránh, cũng không chắc rốt cuộc có phải là cô ấy hay không.”



“Hai tuần sau, Harold tìm đến thôn chài lưới, gầy gò tái nhợt như thể đi ra từ địa ngục. Anh ta gọi A Cầm đi ra gặp mình, A Cầm khóa chặt cửa, không chịu ra ngoài. Anh ta cũng không ép phá cửa xông vào, chỉ ngồi bên ngoài chờ. Người kia cũng bướng bỉnh, hai người cứ giằng co như thế ba ngày, anh ta nói mình muốn có một câu trả lời, biết rốt cuộc mình không tốt ở điểm nào, muốn biết vì sao đột nhiên cô ấy lại biến mất.”



“Người Mỹ kia không chịu thua, trợn to mắt nhìn chằm chặp cánh cửa cũ nát, mặt xanh mét mắt hằn tia máu, rất dọa người. A Cầm nấp sau cửa, không biết là sợ hay đau lòng, thấp giọng nói, ‘Anh đi đi.’ Người kia trả lời, ‘Trừ phi em nói với anh, em cũng không muốn gặp lại anh nữa.’ A Cầm suy nghĩ rồi bảo, ‘em nghĩ anh sẽ không gặp lại em nữa. Em sẽ nói với anh, nhưng anh phải hứa với em một chuyện.’ Anh ta lập tức nói, ‘Anh hứa.’ A Cầm nói, ‘Em mang thai rồi.’ Anh ta hỏi, ‘Em nói gì?’ A Cầm đáp, ‘Cho dù em chết, em cũng muốn đứa bé này còn sống. Em muốn con sống sót. Bọn họ đều nói anh đã có gia đình, vì địa vị xã hội của mình, vì vợ và con anh, chắc chắn anh sẽ không để nó sống. Nhưng em năn nỉ anh, đây là điều duy nhất em có thể có.’ Lúc nói lời này, mắt A Cầm rất sáng, nhưng sắc mặt rất cương quyết. Người Mỹ kia nghe xong lời đó, gần như muốn suy sụp. Anh ta không biết rốt cuộc mình đã làm sai điều gì, cũng không biết rốt cuộc người mình yêu đã làm sai điều gì, mà lại gặp phải đau khổ như thế.”



Hoài Chân truy hỏi, “Sau đó thì sao?”



“Cánh cửa kia rất dễ phá, người da trắng lại có sức lớn, một cước đá văng là việc quá đơn giản. Chẳng qua mới đầu còn phong độ lịch sự, xã giao lễ nghi nên mới chờ. Anh ta cầu hôn ngay tại căn nhà đánh bắt cá ngoài rừng cây ở mũi D’Aguilar, vóc dáng cao lớn như thế, quỳ xuống ngoài thềm, bập bẹ tỏ tình bằng tiếng Quảng xen lẫn tiếng Anh, khẩn cầu cô ấy gả cho mình, yên tâm sinh con ra, anh ta đảm bảo nhất định mình sẽ là người chồng tốt, là người cha tốt. Lời như thế, một cô gái ngây thơ chưa đến hai mươi nghe được, sao lại không động lòng? Về sau mới làm bù nhẫn, sau khi kết hôn, hai người ở trong căn nhà nhỏ giữa rừng chuối. Harold mời bà đỡ nước ngoài có kinh nghiệm đến chăm sóc cô ấy, mùa đông năm đó, cư dân trên đảo Hương Cảng chỉ vừa mặc áo len, đứa bé kia ra đời.”



“Từng ôm đến trấn trên xem qua. Là một bé trai, mắt xanh tóc vàng, mắt giống cha còn môi giống mẹ, bề ngoài rất dễ nhìn.”



Hoài Chân ngoái đầu nhìn Ceasar.



Anh đứng bên ngoài cửa hàng, hỏi tiếp, “Sau đó đã có chuyện gì?”



Ông chủ lấy ra hai trái dừa trong hầm ra, thành thạo đập vỡ vỏ, cắm ống hút vào đưa đến, vừa thở dài nói, “Còn có thể xảy ra chuyện gì được nữa? Khí chất ngạo mạn thối rữa của da trắng ở Hương Cảng lại không hề có trên người người Mỹ kia. Anh ta rất hiền lành gần gũi, phong độ nhanh nhẹn lại rất đẹp trai, còn biết tiếng Quảng, gặp người già hay trẻ con trong thôn cũng có thể tán gẫu với nhau mấy câu. Ai ngờ người trẻ tuổi như thế cũng…. Hầy, cuộc sống như vậy cũng chỉ được hai năm. Anh ta về Mỹ, nói là thuyết phục người nhà chấp nhận cô ấy, cho nên dẫn cậu bé đáng yêu kia đi, nói không lâu sau sẽ đón cô ấy về nhà. A Cầm chờ rồi lại chờ, cuối cùng sống được một năm lại không chờ tiếp được nữa.”



***



Hai người bắt xe buýt đến đường Cape Collinson, Chai Wan ở phía bắc Công viên Quốc gia Shek O, xuống xe đi bộ một đoạn là sẽ đến nghĩa trang Phật giáo.



Ban đầu nó là một ngọn đồi cao, những ngôi mộ màu trắng xếp thành hàng chồng lên nhau, trông như một thành phố hoang vắng chi chít những tòa nhà cao tầng màu trắng.



Hoài Chân mua một bó cúc ở chợ Trung tâm, cầm trong tay. Thềm đá ở nghĩa trang khá dốc, vẫn chưa uống hết nước dừa, lúc lên núi, Ceasar cầm trái dừa giúp cô, còn bàn tay trống nắm lấy tay cô, tránh để cô bị ngã.



Mộ phần hơn hai mươi năm trước đều nằm trên đỉnh núi. Lúc tìm được mộ của A Cầm, Hoài Chân đầu đầy mồ hôi, há miệng thở dốc.



Ceasar đứng sau lưng cô, bình tĩnh nhìn tấm ảnh trên bia đá.
Cô lại hát tiếp, “Tôi là Schnappi, một chú cá sấu nhỏ…” (Ich bin Schnappi, das kleine Krokodil…)



“Lạ quá. Phát âm của em tệ đến mức đó rồi hả?” Anh quay đầu đi, “Nghe như đang chửi anh.”



Cô quay qua nhìn anh, “Không có đâu.”



“Là bài gì?”



“Bài hát trẻ em.”



“Ừ. Sau này hát cho Joyce nghe.”



Hoài Chân suy sụp, “Đã nói là không được gọi Joyce mà!”



Ceasar bật cười.



Mấy người Hoa lên núi tảo mộ, nghiêng đầu nhìn chằm chằm hai người, nhíu mày, không biết bọn họ nổi điên cái gì.



xe hơi chạy qua đường Cape Collinson, dưới ánh mặt trời trông như côn trùng giáp xác đội vỏ dưa hấu.



Bỏ lỡ chuyến xe này thì phải đợi thêm nửa tiếng nữa. Cô cũng không muốn bị cái nắng của nhiệt đới biến thành cái rây, thế là kéo tay anh chạy bạt mạng xuống núi.



Ceasar tay chân dài, đi đằng sau cười to, dễ dàng đuổi theo.



Ngọn đồi vắng tanh, con đường sạch sẽ, bên đường là cây cọ và chuối tây tươi tốt, tiếng cười trẻ tuổi vọng về.



Đấy là toàn bộ bí mật mùa hè liên quan đến miền nam năm đó.



– Kết thúc –



Qin: Đọc xong các ngoại truyện cuối, các bạn có cảm giác thế nào? Riêng mình lúc edit đến đoạn A Cầm và Harold, tự dưng khóc bao giờ chẳng hay. Bi kịch của hai người chính là hiện thực nghiệt ngã của xã hội thời bấy giờ, mà không riêng gì bọn họ, cả Mộng Khanh và Ôn Mạnh Băng, thậm chí là A Lục đều thế. Bọn họ bị thế giới bất công năm xưa chèn ép, đẩy vào đường cùng, ai ai cũng gánh chịu số mệnh bi thảm. Có người sống khá, có người đã chết, có người không bao giờ quên. Mình cảm thấy bọn họ chính là hình ảnh của thời đại bài Hoa, phân biệt chủng tộc của thế kỷ trước. Đến đây cũng đã hiểu phần nào vì sao tác giả lại chọn Hoài Chân xuyên không, bởi lẽ nếu chỉ đơn giản là Mộng Khanh và Ceasar thì có lẽ bọn họ mãi mãi là hai đường thẳng song song, bởi vì xã hội thời đấy đã định như vậy rồi. Có thể nói Hoài Chân đúng là “người thắng nhân sinh”.



Mình cũng chỉ có đôi điều muốn nói về ngoại truyện như thế, về phần Hoài Chân và Ceasar thì không muốn nói nhiều nữa, hai bạn trẻ đã hạnh phúc rồi.



Đây chắc là bộ truyện hoàn với tốc độ nhanh nhất của nhà mình, có thể nhanh nên ẩu, trong quá trình edit thường sai lỗi chính tả và sót câu chưa beta, may mà vẫn luôn được các bạn ủng hộ chỉ ra kịp thời. Cám ơn mọi người đã đồng hành cùng mình trong thời gian qua, cũng cám ơn mọi người đã thích câu chuyện này.