Liêu Trai Chí Dị II
Chương 110 : Diệp Sinh
Ngày đăng: 02:23 19/04/20
Diệp sinh người huyện Hoài Dương (tỉnh Hà Nam) không rõ tên tự, văn chương tư phú đứng đầu một thời nhưng không thành đạt, lận đận mãi nơi trường ốc. Gặp lúc ông Đinh Thừa Hạc người Đông Quan tới làm Tri huyện ở đó, xem văn chương của sinh lấy làm lạ bèn mời tới nói chuyện, rất vừa ý liền sai ở lại trong dinh, giúp cho ăn học, thỉnh thoảng lại cho tiền thóc để giúp đỡ gia đình.
Đến kỳ khảo khóa, ông khen ngợi văn tài của sinh với quan Học sứ, kế sinh đỗ đầu, ông rất mong mỏỉ vào sinh, thi hương xong đòi văn bài của sinh để đọc, gỏ bàn đánh nhịp ngợi khen không ngớt. Không ngờ thời vận cản người, văn chương ghen mệnh, khi ra bảng thì sinh rớt, trở về ngơ ngác thẫn thờ, thẹn đã phụ lòng tri kỷ, thân gầy rộc như bộ xương, người ngây ra như tượng gỗ.
Ông nghe tin mời tới an ủi, sinh rơi lụy không thôi. Ông thương xót, hẹn lúc nào hết hạn về kinh sẽ đưa sinh cùng đi. Sinh rất cảm kích cáo từ ra về, đóng cửa không đi đâu nữa. Không bao lâu sinh lâm bệnh, ông thăm hỏi biếu tặng không ngớt nhưng sinh uống bao nhiêu thuốc vẫn không khỏi. Gặp lúc ông xúc phạm quan trên bị cách chức, lúc sắp về quê bèn viết thư cho sinh, đại lược rằng "Ta nay mai sẽ về Đông nhưng sở dĩ còn chần chừ là vì muốn chờ túc hạ đó thôi. Túc hạ tới buổi sáng thì buổi chiều ta khởi hành".
Thư đưa tới cạnh giường, sinh cầm thư xem khóc rồi nhắn người đưa thư về nói bệnh nặng khó khỏi ngay, xin ông cứ đi trước. Người ấy về thưa lại, ông không nỡ đi, nán lại để chờ. Qua mấy hôm chợt người canh cổng vào báo Diệp sinh tới, ông mừng rỡ ra đón hỏi han. Sinh nói "Vì cái bệnh của kẻ hèn để đại nhân phải chờ lâu, lòng rất áy náy, nay may đã có thể theo hầu”.
Ông bèn gói ghém hành trang đi sớm, về tới làng sai con thờ sinh làm thầy, sớm tối bên nhau. Công tử tên Tái Xương, năm ấy mười sáu tuổi, chưa biết làm văn nhưng rất thông minh, sách vở thơ phú đọc qua hai ba lần là nhớ không sót một chữ. Được một năm thì công tử hạ bút thành văn, thêm có ông lo toan nên được vào học trường huyện. Sinh chép lại tất cả văn chương cử nghiệp của mình đã làm cho công tử học, đến khi vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đỗ á khôi.
Một hôm ông nói với sinh "Ông bỏ ra một mối tơ thừa mà giúp thằng nhỏ thành danh, nhung quả chuông vàng bị vứt bỏ mãi thì làm sao?”. Sinh nói "Điều đó là có số mẹnh. Ta mượn phúc trạch của đại nhân mà hà hơi cho văn chương để người đời biết rằng nửa đời lận đận không phải vì kém tài, thế là thỏa nguyện rồi. Vả lại kẻ sĩ được một người biết đã đủ không ân hận, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?".
6. Ngoài bảng Tôn Sơn: Thi thoại chép Tôn Sơn thời Đường đi thi đỗ cuối bảng, có người cùng dự thi vờ tới hỏi thăm, Sơn đáp "Cuối bảng là Tôn Sơn, Người khác thì ngoài bảng". Đây chỉ việc thi rớt.
7. Khóc ròng... Biện Hòa: Hàn Phi tử chép Biện Hòa người nước Sở dâng viên ngọc chưa đẽo gọt cho Hoài vương, Hoài vương cho là viên đá bèn chặt chân trái của Hòa. Hoài vương chết, Hòa lại dâng cho Bình vương, Bình vương cũng cho là khi quân, sai chặt chân phải của Hòa. Bình vương chết, Kinh vương lên ngôi, Hòa ôm viên ngọc khóc dưới núi. Kinh vương biết chuyện sai thợ khéo gọt giũa, phá lớp đá ngoài thì được một viên ngọc rất đẹp, bèn phong Hòa làm Lăng Dương hầu. Cả câu ý nói có tài mà không được ai biết tới.
8. Ngựa hay... Bá Nhạc: Chiến quốc sách chép Bá Nhạc giỏi xem tướng ngựa, một hôm vào chợ bán ngựa chơi, có người bán ngựa hay tới nói “Ta đứng bán ở đây đã ba ngày mà không ai hỏi tới. Nhờ ông đi một vòng rồi tới nhìn ngựa của ta, nhìn xong quay đi nhưng lại ngoái đầu nhìn lại, ta xin dâng số tiền lời của một ngày". Nhạc theo lời, chỉ trong một buổi sáng người ấy đã bán đuợc giá gấp mười. Đây ý nói có tài mà không được ai giúp đỡ tiến cử.
9. Ôm danh thiếp... nhạt chữ: Hậu Hán thư, Trương Hành truyện chép Trương Hành tới đất Lạc chơi, mang theo một tấm danh thiếp nhưng không có ai để yết kiến mà đưa nên lâu ngày chữ trên tấm danh thiếp phai hết.
10. Lệnh Uy trỡ lại: Hậu Sưu thần ký chép Đinh Lệnh Uy là ngừời Liêu Đông vào núi Linh Hư học đạo, sau hóa thành con chim hạc bay về quê đậu trên cây hoa biểu nói “Hữu điểu hữu điểu Đinh Lệnh Uy, Khứ gia thiên niên kim thủy quy. Thành quách như cố nhân dân phi, Hà bất học tiên gia luy luy" (Có chim có chim Đinh Lệnh Uy, Học đạo ngàn năm nay mới về, Thành quách như xưa người đã khác, Sao chẳng theo tiên hóa hạc đi).