Luật Giang Hồ

Chương 22 :

Ngày đăng: 15:13 19/04/20


Pertil Perdersson, kỹ sư trưởng của Svenhalte, AC, đứng tại cổng nhà máy Kalmar để chào đón ông Riffat và ông Bernstrom khi hai người đến buổi sáng hôm ấy. Ông ta đã nhận được một bức fax từ Liên Hiệp Quốc ngày hôm trước xác nhận thời gian bay của họ đến Stockholm, và đã kiểm tra lại với quầy đến ở phi trường để được thông báo rằng máy bay của họ đã hạ cánh trễ ít phút.



Trong lúc họ bước ra khỏi xe hơi, ông Perdersson tiến tới trước bắt tay với cả hai người và tự giới thiệu.



- Chúng tôi vui mừng đã gặp được ông, ông Perdersson, - người đàn ông thấp nói, - và cám ơn ông vì đã thu xếp thời giờ để tiếp chúng tôi trong một thời hạn ngắn như thế.



- Thành thực mà nói, ông Riffat, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi Liên hợp quốc giải toả hạn chế đối với bà Bertha.



- Bà Bertha?



- Vâng, đó là cách chúng tôi nói chiếc tủ sắt ở nhà máy. Tôi xin hứa với quý ông rằng mặc dù quý ông không để ý bà ta không khác gì một cô gái tuyệt dẹp. Nhiều người đã đến đây để ngưỡng mộ bà ta, nhưng không một ai sờ mó được.



Ông Perdersson bật cười rồi nói tiếp:



- Nhưng tôi cảm thấy chắc chắn rằng sau một cuộc hành trình dài như vậy ông Riffat sẽ muốn tận mắt trông thấy nó.



Người đàn ông thấp có mái tóc đen gật đầu. và cả hai cùng đi theo ông Perdersson trong lúc ông ta dẫn họ qua khoảng sân.



- Ông phản ứng hết sức nhanh với sự đổi ý bất ngờ của Liên Hiệp Quốc. Ông Riffat.



- Vâng, vị lãnh tụ của chúng tôi đã ra lệnh chiếc tủ sắt phải được giao tới Baghdad ngay lúc việc cấm vận được giải toả.



Perdersson lại bật cười và nói sau khi họ đã đến phía bên kia sân:



- Tôi e việc đó không thể dễ dàng như thế. Bà Bertha không thuộc loại chế tạo nhanh, như ông sắp sửa nhận thấy.



Ba người tiếp tục đi về phía một toà nhà lớn trông bế ngoài có vẻ vô chủ và Perdersson sải bước qua một khoảng hở chắc hẳn trước kia là một khung cửa. Bên trong tối đến nỗi hai người khách lạ không thể nào trông thấy rô xa hơn vài mét phía trước họ. Perdersson bật một bóng đèn đơn độc, tiếp theo đó là một tiếng động nhẹ nghe như một tiếng thở dài của một người tình không được đáp lại.



- Ông Riffat, ông Bernstrom, xin cho phép tới giới thiệu quý ông với bà Bertha.



Hai người nhìn chằm chằm vào cấu trúc đồ sộ đứng một cách uy nghi chính giữa nến nhà kho cũ.



- Trước khi tôi trình bày một lời giới thiệu trang trọng, - Perdersson nói tiếp, - trước hết xin để cho tôi kể với quý ông về những con số thống kê tối quan trọng của bà Bertha. Bà ta cao hai mét bảy mươi lăm, rộng hai mét mười lăm và sáu hai mét bốn mươi lăm. Bà ta cũng có da dày như bất kỳ một chính trị gia nào, khoảng mười lăm phân bằng một loại thép nặng biệt và cân nặng trên năm tấn. Bà ta được chế tạo bởi một nhà thiết kế chuyên nghiệp, ba người thợ lành nghề và tám kỹ sư. Thời gian thai nghén của bà ta từ lúc tính toán tới lúc giao hàng là mười tám tháng.



Ông ta chợt hạ tháp giọng trong lúc vẫn tiếp tục nói:



- Nhưng rồi, công bằng mà nói, bà ta gần như có kích thước của một con voi. Tôi phải hạ thấp giọng xuống chỉ vì bà ta có thể nghe mọi lời tôi nói và tôi không muốn chọc giận bà ta.



Ông Perdersson không trông thấy vẻ bối rối hiện ra trên khuôn mặt của hai người khách.



- Nhưng, quý ông chỉ vừa mới thấy bên ngoài của bà ta và tôi có thể hứa với quý ông rằng bà ta không phải chỉ có bên ngoài. Trước hết, tôi phải nói với quý ông rằng "bà Bertha" sẽ không cho phép bất cứ ai vào bên trong nếu người đó không được phép giới thiệu rõ về bản thân. Quý ông nên biết bà ta không phải là một phụ nữ lăng nhăng, mặc dù quý ông có thể đã được nghe nói về người Thuỵ Điển. Bà ta đòi hỏi biết ba điều trước khi xem xét việc tiết lộ những phần trong cùng của mình.



Mặc dù hai người khách vẫn còn hoang mang về những gì ông ta ngụ ý, họ không ngắt lời đều đều của ông Perdersson.



- Đầu tiên quý ông cần phải nghiên cứu ngực của Bertha. Quý ông sẽ nhìn kỹ ba bóng đèn màu đỏ phía trên ba mặt số nhỏ. Biết được tất cả mã số tên tất cả ba mặt số, quý ông có thể bặt các bóng đèn từ đỏ sang xanh lá cây.



- Xin cho biết tôi trình bày tường tận. Tất cả ba mặt số đều có một mã số gồm sáu con số. Con số đầu tiên bên phải, thứ hai bên trái, thứ ba bên phải, thứ tư bên trái, thứ năm bên phải, thứ sáu bên trái. Con số đấu tiên cho mặt số đầu tiên là 2, thứ hai là 8, thứ ba là 0, thứ tư là 4 thứ năm là 3 và thứ sáu là 7. 2-8-0-4-3-7.



- Ngày sinh của Sayedi, - người khách cao có mái tóc vàng hoe nói.



- Vâng, tôi đã tìm được mã số đó, ông Bernstrom, - ông Perdersson nói, rồi quay sự chú ý sang mặt số ở giữa rồi nói tiếp - Mã số thứ hai là 1-6-0-7-7-9. Ông ta quay con so cuối cùng sang bên trái.



- Ngày Sayedi trở thành Tổng thống.



- Chúng tôi cũng đã tìm ra mã số đó, ông Riffat.



Nhưng tôi thú nhận tiến trình thứ ba đã làm cho chúng tôi hoàn toàn điên đầu. Chắc chắn ông sẽ biết khách hàng của chúng tôi đã chuẩn bị điều gì cho cái ngày đặc biệt đó.



Ông Perdersson bắt đầu xoay mặt số thứ ba: 0-4-0-7-9-3. Ông ta nhìn vui vẻ hy vọng về phía ông Bernstrom.



- Tôi không biết, - Bernstrom nhún vai, nói dối.



Bây giờ quý ông sẽ lưu ý rằng sau khi cho cả con số đúng vào cả ba mặt số, chỉ có một trong ba bóng đèn của Bà Bertha chuyển sang màu xanh lá cây, trong lúc hai bóng còn lại vẫn giữ màu đỏ. Nhưng lúc này sau khi quý ông đã khám phá ra ba mã số của bà ta, bà ta sẽ xem xét một mối liên hệ riêng tư hơn. Quý ông sẽ nhận thấy ở bên dưới ba mặt số có một hình vuông nhỏ sơn trắng có kích thước bằng bàn tay. Quý ông hãy quan sát thật kỹ.



Perdersson tiến tới một bước và đặt bàn tay phải một cách cương quyết lên hình vuông màu trắng. Ông ta để bàn tay tại đó trong mấy giây, cho tới lúc bóng đèn thứ hai chuyển sang màu xanh lá cây.



Ngay khi bà ta biết dấu lòng bàn tay của ông, bà ta vẫn chưa chịu tâm sự, cho tới lúc ông đã nói chuyện với bà ta. Nếu quý ông nhìn kỹ hơn nữa, quý ông sẽ thấy rằng hình vuông màu trắng che đậy một tấm lưới mỏng chứa một bộ phận hoạt hoá tiếng nói.



Cả hai người bước tới trước để nhìn.



- Vào lúc này, Bertha được lập chương trình để chỉ phản ứng lại dây thanh đới của tôi. Bất kể tôi nói gì, bởi vì khi bà ta nhận ra giọng nói, bóng đèn thứ ba sẽ chuyển sang màu xanh lá cây. Nhưng bà ta thậm chí sẽ không thèm nghe tôi trừ phi bóng đèn thứ nhất và thứ hai đã ang màu xanh lá cày.



Perdersson bước tới trước đặt môi đối diện với tấm lưới.



- Hai vị đã đến từ Mỹ để thăm bà và muốn biết bên trong như thế nào.



Ngay cả trước khi ông ta nói xong câu đó, bóng đèn đỏ thứ ba đã biến thành xanh lá cây, và mọi người có thể nghe một âm thanh chát tai.
- Đó sẽ là một món quà, nếu chúng ta gặp may, nhưng không bao gồm trong công việc của tôi. Tôi cho rằng khả năng anh chỉ trông thấy cô ta thôi cũng hết sức xa vời, - ông nói khi họ vượt qua một tấm bảng "Chào mừng đến Stockholm".



Scott bắt đầu đập cuốn thánh thư của Bertha liên tục trên đầu gối.



- Anh hãy cẩn thận với nó, - Kratz nói - Nó còn cần được dịch ra, nếu không anh sẽ không biết cách khởi sự làm quen với Bà Bertha. Xét cho cùng, chỉ có lòng bàn tay và giọng nói của anh mới khiến bà ta mở cửa.



Scott liếc xuống tập sách 108 trang và tự hỏi anh phải mất bao lâu để nắm được các bí quyết của nó, thậm chí sau khi nó đã được dịch ra tiếng Anh.



Kratz đột nhiên quẹo phải không báo trước và lái xe dọc theo một đường phố vắng vẻ chạy song song với một đường xe lửa không còn dùng tới. Scott chỉ có thể trông thấy ở phía trước mặt anh là một đường hầm dường như dẫn tới cõi hư vô.



Khi còn cách lối vào khoảng một trăm mét, Kratz kiểm tra kính chiếu hậu để xem thử có ai theo dõi họ hay không. Mãn nguyện vì họ chỉ có một mình, ông bật đèn pha ba lần. Một giây sau, từ phía đàng kia của một cái lỗ đen, ông nhận được đáp ứng tương tự. Ông cho xe chạy chậm lại và lái vào trong đường hầm mà không bật đèn lên. Bầy giờ thì Scott chỉ có thể trông thấy một ngọn đèn điện loại xách tay chỉ cho họ nơi cần đến.



Kratz theo ánh đèn và ngừng lại phía trước một vật vừa hiện ra là một chiếc xe hơi cũ. Nó đậu ngay ở trong đầu kia của đường hầm.



Ông nhảy ra khỏi xe và Scott nhanh nhẹn theo sau, cố làm quen với thứ ánh sáng lờ mờ. Rồi anh trông thấy ở mỗi bên chiếc xe tải có ba người đàn ông đang đứng.



Người gần họ nhất đứng nghiêm và giơ cao tay lên ngang đầu:



- Chào Đại tá, - anh ta nói.



- Hãy cho người của anh ở tư thế nghỉ, Fieldman, và đến gặp giáo sư Bradley, - Kratz nói.



Scott suýt bật cười khi học vị của anh được sử dụng trong đám người này, nhưng không có một nụ cười nào trên gương mặt của sáu quân nhàn đang tiến tới trước để gặp anh.



Sau khi bắt tay với từng người một, anh đi vòng quanh chiếc xe tải.



- Ông thực sự tin cái đống sắt cũ này có thể chở Bà Bertha đến Baghdad hay sao? - anh nghi ngờ hỏi Kratz.



- Trung sĩ Cohen.



- Có tôi thưa ông, - một tiếng nói trong bóng tối vang lên.



- Anh là thợ máy đã được huấn luyện. Tại sao anh không báo cáo sơ lược cho giáo sư Bradley biết.



- Vâng, thưa ông.



Một bóng người khác hiện ra trong ánh sáng lờ mờ.



Scott không thế trông rõ nét mặt của anh ta, vì anh ta đầy dầu mỡ, nhưng qua giọng nói của anh ta, Scott phỏng đoán anh ta đã trải qua phần lớn cuộc đời ở London.



- Chiếc Heavy Expanded Mobile Tactical Truck này, gọi tắt là HEMIT, được chế tạo ở Wisconsin. Nó có năm số, bốn tới, một lui. Nó có thể được sứ dụng trên mọi địa hình trong hầu hết điều kiện thời tiết, ở gần như bất kỳ quốc gia nào. Nó nặng hai mươi tấn và có thể chở đến mười tấn, nhưng trọng lượng đó chất trên xe ông không thể mạo hiểm lái trên năm mươi cây số giờ. Trên tốc độ này nó sẽ không thể ngừng lại được, cho dù nếu nhấn thêm ga có thể lên tới gần hai trăm cây số giờ.



- Cám ơn anh, Cohen. Một trang bị hữu ích, tôi nghĩ anh sẽ đồng ý. - Kratz vừa nói vừa nhìn trở lại Scott - Chúng tôi đã muốn có được một chiếc xe như thế này từ mấy năm nay, rồi đột nhiên anh xuất đầu lộ diện và chú Sam đưa ngay cho chúng tôi mẫu đầu tiên này. Tuy nhiên. với cái giá gần một triệu đô la tiền đóng thuế, anh phải nghĩ người Mỹ sẽ kén chọn người họ cho mượn.



- Giáo sư có vui lòng ăn trưa với chúng tôi? - người được giới thiệu là Fieldman hỏi.



- Xin đừng nói với tôi chiếc HEMET cũng biết nấu nướng. - Scott đùa.



- Không, thưa giáo sư, chúng tôi phải nhờ anh bạn người Kurd làm việc đó. Sở trường của Aziz là hamburger và các món chiên của Pháp. Nếu giáo sư chưa bao giờ dùng qua, rất có thể ngon lắm đấy.



Cả tám người ngồi xếp bằng trên mặt đất, dùng mặt trái của bàn cờ làm bàn án. Scott không thể nhớ đã từng thưởng thức món hamburger cháy nào ngon hơn. Anh cùng vui mừng vì có dịp trò chuyện với những người sẽ cùng chung công tác. Kratz bắt đầu bàn bạc tỉ mỉ về những kế hoạch đề phòng khi bất trắc mà họ sẽ phải xem xét một khi đã đến biên giới Jordan - Iraq. Chi cần mấy phút cũng đủ cho anh nhận thức những con người này chuyên nghiệp như thế nào, hoặc trông thấy nỗi khát khao của họ khi được tham gia vào đội chung kết này. Scott mỗi lúc một thêm tin tưởng rằng mọi việc đang được giao cho những bàn tay xuất sắc, và đội của Kratz không phải được chọn lựa một cách ngẫu nhiên.



Sau chiếc hamburger thứ ba, anh lấy làm tiếc khi vị Đại tá Mossad nhắc nhở anh phải đáp một chuyến bay.



Anh liền đứng lên và cám ơn người đầu bếp về món ăn đáng nhớ.



- Sẽ gặp giáo sư ở Jordan, - trung sĩ Cohen nói.



- Sẽ gặp Trung sĩ ở Jordan, - Scott nói.



Trong lúc Scott được đưa tới phi trường, anh hỏi Kratz:



- Ông sẽ lựa chọn ai người chung kết như thế nào?



- Họ sẽ tự quyết định với nhau. Việc đó không liên quan tới tôi. Tôi chỉ là sĩ quan chỉ huy của họ.



- Ông muốn nói gì thế - Họ sẽ đánh cờ backgamman trên đường đi Jordan. Hai người thắng sẽ được một chuyến du lịch một ngày đến Baghdad, hoàn toàn miễn phí.



- Còn những người thua?



- Được một tấm bưu thiếp với dòng chữ: "Ước mong anh đã ở đây".



--- ------ ------ ------ -------



1 Gurkha: một dân tộc sống trong vùng núi của Nepal, nổi tiếng là những chiến sĩ giỏi.