Luật Giang Hồ

Chương 6 :

Ngày đăng: 15:13 19/04/20


Scott nghe điện thoại reo vang khi anh ở chân cầu thang. Tâm trí anh còn đang rà xét lại bài giảng buổi sáng, nhưng anh vẫn nhảy lên từng ba nấc thang một, đẩy mở cánh cửa căn hộ của anh và chộp lấy máy điện thoại, hất tấm ảnh của mẹ anh xuống sàn nhà.



- Scott Bradley, - anh vừa nói vừa nhặt bức ảnh lên và đặt trở lại lên tủ búp phê.



- Tôi cần anh ở Washington ngày mai chín giờ đúng tại văn phòng của tôi.



Scott luôn luôn để ý đến cách Dexter Hutchins không bao giờ tự giới thiệu, và luôn luôn xem công việc anh làm cho CIA quan trọng hơn sự cống hiến của anh đối với Yale.



Phải mất gần trọn buổi chiều Scott mới thu xếp lại tiến độ giảng dạy của anh với hai người bạn đồng nghiệp thông cảm. Anh không thể lấy cớ không được khỏe, bởi vì tất cả mọi người trong khuôn viên trường đại học đều biết rằng anh đã không bỏ một ngày làm việc nào do đau yếu suốt chín năm vừa qua. Vì thế anh lại đành phải vin vào chuyện rắc rối với phụ nữ là lý do luôn luôn được các giáo sư lớn tuổi hơn thông cảm cho, nhưng không thể cho họ hỏi han quá nhiều.



Dexter Hutchins không bao giờ cho biết bất kỳ chi tiết nào qua điện thoại về những gì Scott cần, nhưng khi tất cả nhật báo buổi sáng đăng những hình ảnh của Yitzhak Rabin đến Washington để gặp gỡ lần đầu tiên với Tổng thống Clinton, anh đã đoán ra mọi việc.



Scott lấy hồ sơ chèn giữa thuế và án xử sai và lấy ra tất cả những gì anh có về vị Thủ tướng mới của Do thái.



Chính sách của anh ta đối với Mỹ dường như không khác nhiều so với người tiền nhiệm. Ông ta có học vấn cao hơn Shamir, hoà hoãn và nhẹ nhàng hơn khi tiếp cận, nhưng Scott tin chắc rằng nếu xảy ra một cuộc đâm chém trong một quán rượu ở khu thương mại, Rubin là người sẽ thoát ra ngoài một cách kín đáo.



Anh ngả lưng vào ghế và bắt đầu nghĩ về một cô gái tóc vàng có tên là Susan Anderson đã hiện diện trong buổi họp vừa qua mà anh đã được yêu cầu tham dự với vị bộ trưởng ngoại giao mới. Nếu cô ta cũng có mặt lần này, thì chuyến đi đến Washington chắn sẽ hết sức lý thú.



° ° °



Một người đàn ông trầm lặng ngồi trên một chiếc ghế đẩu ở phía cuối quán rượu đang uống cạn những giọt bia cuối cùng trong cốc của ông ta. Cái cốc đã gần như cạn sạch Guinness từ lâu, nhưng người đàn ông Ái Nhĩ Lan luôn luôn hy vọng rằng cử động đó sẽ gợi lên một sự thông cảm nào đó nơi anh tiếp viên, và rất có thể anh ta tử tế rót thêm một chút vào trong cái cốc đã cạn. Nhưng anh chàng tiếp viên đặc biệt này thì không trông mong gì.



- Đồ độc ác, - ông ta nói trong hơi thở.



Bọn trẻ vẫn luôn luôn không có trái tim.



Anh tiếp viên không biết tên thực của người khách hàng. Về vấn đề đó, ít có người biết ngoại trừ FBI và sở cảnh sát San Francisco hồ sơ ở Sở cảnh sát San Francisco cho biết tuổi William San OReilly là năm mươi hai. Một người bàng quan ngẫu nhiên, chắc chắn sẽ đoán y gần sáu mươi lăm không phải chỉ do bộ quần áo của y đã quá sờn, mà còn do những nếp nhăn trên trán, phía dưới mắt và chiếc bụng phệ của y. OReilly cho đó là vì ba phần tiền cấp dưỡng cho các bà vợ đã ly hôn, bốn bản án tù và lang bạt quá nhiều nơi trong thời trai trẻ với tư cách một võ sĩ quyền anh nghiệp dư.



Vấn đề đã bắt đầu ở trường học khi OReilly hoàn toàn tình cờ khám phá ra rằng y có thể bắt chước chữ ký của các bạn cùng lớp khi họ ký tên vào giấy rút tiền túi từ ngân hàng của trường. Vào thời gian y học xong năm thứ nhất ở trường đại học Trimty, Dublin, y có thể giả mạo chữ ký của ông hiệu trưởng và người thủ quỹ giỏi đến nỗi thậm chí họ tưởng rằng họ đã thưởng cho y một học bổng.



Trong lúc ở trại St. Patrick dành riêng cho phạm nhân, Bill 1 được Giam, một tên chuyên làm đồ giả, giới thiệu với tờ giấy bạc. Khi người ta mở cổng thả y ra, gã thiếu niên tập sự đã không còn gì đáng học ở người thầy nữa. Bill phát hiện ra rằng mẹ y không muốn cho y trở về trong sự bao bọc của gia đình, thế là y giả mạo chữ ký của Lãnh sự Mỹ tại Dublin và đi qua thế giới mới tốt đẹp hơn.



Tới tuổi ba mươi, y đã khắc được bản kẽm đô la đầu tiên. Công việc xuất sắc đến nỗi trong phiên toà diễn ra sau khi y bị phát giác, FBI phải nhìn nhận rằng bản kẽm đó là cả một kiệt tác và sẽ không bao giờ bị khám phá nếu không nhờ một người chỉ điểm. OReilly bị kết án sáu năm và ban hình sự của tờ San Francisco Chronicle đặc biệt danh cho y là "Dollar Bill".



Khi Dollar Bill được phóng thích khỏi nhà lao, y đi khắp mọi nơi từ tuổi thiếu niên, tới thanh niên, rồi ngũ tuần và các bản án của y cứ tăng dần theo tỷ lệ tuổi. Trong khoảng giữa các thời gian ở tù lấy vợ ba lần và ly dị ba lần. Một điều khác nữa mà mẹ y không đời nào chấp thuận.



Bà vợ thứ ba của y đã cố hết sức để giữ y sống một cách lương thiện và Bill đáp lại bằng cách chỉ làm một số giấy tờ giả mạo những lúc y không thể tìm được bất kỳ công việc nào khác - hộ chiếu, bằng lái xe, hoặc chứng từ bảo hiểm xã hội - không có gì đáng gọi là phạm pháp thực sự y quả quyết với quan toà. Nhưng quan toà không đồng ý và lại đưa y trở lại nhà tù năm năm nữa.



Khi Dollar Bill được phóng thích lần này, không một ai thèm tiếp xúc với y, vì vậy y đành phải làm công việc xăm hình ở các khu hội chợ và lúc cùng đường vẽ tranh trên hè phố khi trời không mưa, cũng chỉ đủ cho y uống bia Guinness.



Bill nâng cái cốc đã cạn lên và chăm chú nhìn anh tiếp viên một lần nữa, nhưng anh ta vẫn nhìn trả lại với một vẻ dửng dưng. Y không để ý tới người thanh niên ăn mặc lịch sự ngồi trên chiếc ghế đẩu bên cạnh y.



- Tôi có thể mời ông một ly chứ, ông ORielly? - một giọng nói hoàn toàn xa lạ chợt vang lên!



Bill nhìn quanh với vẻ nghi ngại.



- Tôi nghi hưu rồi, - y tuyên bố, sợ rừng đây lại là một trong số thám tử mặc thường phục của sở cảnh sát San Francisco đã không đạt chỉ tiêu câu lưu 2 trong tháng.



- Thế thì ông không thèm uống một ly với một cựu tù nhân hay sao? - gã thanh niên nói với giọng nhẹ của khu Bronx.
- Họ đã trả trước bằng tiền mặt ngày thứ năm vừa qua, - cô gái trả lời.



Người tài xế đặt máy điện thoại lên giá và bắt đầu cuộc hành trình đến Cincinnati. Nhưng có một điều gì đó vẫn còn lấn cấn trong tâm trí của anh ta. Tại sao viên cảnh sát đứng quá gần cửa xe khiến anh ta không sao ra ngoài, và tại sao hắn ta không chịu giở kính che mắt ở mũ an toàn lên? Anh ta cố xua đuổi những ý nghĩ như thế. "Chừng nào công ty vẫn còn trả lương thì điều đó đâu thành vấn đề".



Anh ta lái xe trên xa lộ và không trông thấy chiếc xe cứu thương không thèm biết tới cột mốc chỉ đường về phía trung tâm thành phố và vẫn chạy theo dòng lưu thông hướng về phía ngược lại. Gã đàn ông ngồi sau tay lái cũng đang liên lạc với trụ sở chính.



- Mọi việc theo đúng kế hoạch, thưa xếp, - đó là tất cả những gì đã đáp lại câu hỏi thứ nhất.



- Tốt, - Cavalli trả lời.



- Còn tên tài xế?



- Đang trên đường trở về Cincinnati, không biết gì hơn.



- Tốt, - Cavalli lại nói, - Còn bệnh nhân?



- Theo tôi biết thì khỏe, - gã tài xế vừa nói vừa liếc vào kính chiếu hậu.



- Còn hộ tống cảnh sát?



- Mario đã quẹo vào một con đường phụ để thay bộ đồng phục Federal Express. Anh ta sẽ bắt kịp chúng tôi trong vòng một giờ.



- Giao lộ tới còn cách bao xa?



Gã tài xế xem đồng hồ cây số.



- Còn khoảng một trăm rưỡi cây số nữa, ngay sau khi băng qua ranh giới của bang.



- Rồi sao nữa?



- Bốn lần thay đổi nữa gần nơi đó và Big Apple. Tài xế mới và xe khác cho mỗi lần. Bệnh nhân sẽ tới chỗ rộng khoảng nửa đêm ngày mai, mặc dù ông ta có lẽ phải ghé vào phòng vệ sinh một vài lần trên đường đi.



- Không cần phòng vệ sinh, - Cavalli nói - Anh chỉ cần đưa hắn ra khỏi xa lộ và che kín hắn vào phía sau một gốc cây.



--- ------ ------ ------ -------



1 Bill: tên gọi tắt của William.



2 Câu lưu: giam giữ.



3 pin: đơn vị dung tích của Mỹ bằng 0,478 lít.



4 Mona Lia: bức hoạ nổi tiếng của Leonardo da Vinci, hoạ sĩ điêu khắc gia, kiến trúc sư, kỹ sư người Ý (1452-1599) còn được gọi là La Gioconda vẽ chân dung một người đàn bà với một người bí ẩn.



5 Magna Casts: bản Đại Hiến chương mà vua nước Anh là John đã bị các Nam tước ép phải chấp thuận vào ngày 15- 06-1215.



6 Tức là cuốn "A Time to love and a Time to Die" (Một thời để yêu và một thời để chết) của nhà văn Mỹ ra đời ở Đức Erich Maria Remarque (1898 -1970).