Mật Mã Da Vinci
Chương 21 :
Ngày đăng: 01:01 22/04/20
Bức Mona Lisa Trong khoảnh khắc, đứng ở lối cầu thang thoát hiểm, Sophie quên hẳn họ đang tìm cách rời khỏi Bảo tàng Louvre.
Cú sốc bởi trò anagram này chỉ có thể sánh với nỗi ngượng do cô không tự mình giải mã được lời nhắn. Sự thành thạo của Sophie trong việc giải những dòng mật mã phức tạp đã khiến cô bỏ qua những trò chơi chữ đơn giản mà cô biết đáng lẽ cô phải nhìn ra. Nói cho cùng, cô đâu có lạ gì anagram - nhất là anagram bằng tiếng Anh.
Khi cô còn nhỏ, ông cô thường dùng nanagram để luyện chính tả tiếng Anh cho cô. Có lần ông viết từ tiếng Anh "planets" (các hành tinh) và bảo Sophie rằng có tới chín mươi hai từ tiếng Anh khác có độ dài khác nhau có thể được ghép bằng cùng những chữ cái đó một con số đáng kinh ngạc. Sophie đã mất ba ngày ngồi bên một cuốn từ điển cho đến khi cô tìm thấy tất cả những từ ấy.
"Tôi không thể tưởng tượng được". Langdon vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào tờ giấy, "Làm thế nào mà ông cô lại nghĩ ra được một anagram rắc rối đến thế chỉ trong vòng vài phút trước khi chết!".
Sophie biết lời giải thích cho thắc mắc đó, và việc nhận ra điều đó càng khiến cô cảm thấy xấu hổ hơn. Đáng ra mình phải thấy ra điều đó! Rồi cô nhớ ra rằng ông cô - một người say mê chơi chữ và yêu nghệ thuật - đã tự tiêu khiển như một chàng trai trẻ bằng cách sáng tạo những anagram bằng tên các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Trên thực tế, một trong những anagram của ông đã từng khiến ông gặp rắc rối, đó là khi Sophie còn rất nhỏ. Trong khi được một tạp chí nghệ thuật của Mỹ phỏng vấn, Saunière đã nhấn mạnh sự chán ghét của mình đối với trào lưu chủ nghĩa lập thể hiện đại bằng cách nhận xét rằng kiệt tác của Picasso "Les Demosielles d Avignon (Các cô nàng vùng Avignon)" là một anagram hoàn hảo của cûa vile meaningless doodles (những nét nguệch ngoạc xấu xí vô nghĩa). Những người hâm mộ Picasso không cảm thấy hài lòng về chuyện này.
"Ông tôi có lẽ đã tạo ra cái anagram về Mona Lisa này từ lâu rồi", Sophie nói, liếc nhìn Langdon. Và tối nay ông bắt buộc phải sử dụng nó như một mật mã tạm thời. Như thể tiếng ông cô từ thế giới bên kia vọng về với một độ chính xác rợn người.
Leonardo da Vinci!
Bức tranh la Lisa!
Tại sao những lời cuối của ông cho cô lại quy chiếu về bức tranh nổi tiếng ấy nhỉ. Sophie không biết, nhưng cô có thể nghĩ về một khả năng duy nhất. Một khả năng khiến cô thật rối trí.
Đó không phải là những lời cuối cùng của ông…
Cô phải đến chỗ bức tranh Mona Lisa ư? Liệu ông có để lại cho cô một lời nhắn nào ở đó không? Ý này có vẻ hoàn toàn hợp lí. Rốt cuộc, bức tranh nổi tiếng ấy đang được treo ở Salle des Etats - một phòng bày riêng biệt chỉ có thể vào từ Hành Lang Lớn. Thực tế - lúc này, Sophie nhận ra - cửa vào phòng bày riêng đó chỉ cách nơi ông cô chết hai mươi mét.
Rât có thể ông đã đến thăm Mona Lisa trước khi chết.
Sophie ngoái nhìn cầu thang thoát hiểm và cảm thấy phân vân. Cô biết cô nên đưa Langdon ra khỏi bảo tàng ngay lập tức, tuy nhiên linh tính lại mách cô làm ngược lại. Khi Sophie nhớ lại chuyến viếng thăm đầu viên hồi còn nhỏ đến Cánh Denon, cô nhận ra rằng nếu ông cô có một bí mật muốn nói với cô thì hiếm nơi nào trên trái đất này thích hợp hơn bức hoạ Mona Lisa của Da Vinci.
"Cô ấy chỉ còn cách một chút xíu nữa thôi", ông cô khẽ thì thầm, nắm chặt bàn tay nhỏ của Sophie sau khi dẫn cô đi khắp bảo tàng vắng lặng hàng giờ liền.
Sophie sáu tuổi. Cô cảm thấy nhỏ bé và chầng có ý nghĩa gì khi ngước lên thấy trần nhà to tướng, còn cúi xuống thì lại thấy sàn rộng đến hoa mắt, chóng mặt. Bảo tàng vắng ngắt làm cô sợ mặc dù cô không hề muốn ông biết điều đó. Cô cắn chặt răng và cứ để ông dắt đi.
"Ngay phía trước là Salle des Etats đấy", ông cô nói khi bước đến căn phòng nổi tiếng nhất bảo tàng Louvre. Dù thấy rõ là ông rất hào hứng, Sophie vẫn muốn về nhà. Cô đã nhìn thấy những bức ảnh chụp Mona Lisa trong nhiều cuốn sách và chẳng thích nó chút nào cả. Cô không hiểu tại sao mọi người lại làm rùm beng đến thế.
"C est ennllyeux"(1) Sophie càu nhàu.
"Boring(2) chứ", ông cô chữa lại. "Ở trường, nói tiếng Pháp. Ở nhà, nói tiếng Anh".
"Le Louvre, c est pas chez moi!"(3). Cô bé cãi.
Ông cười mệt mỏi: "Cháu nói đúng. Vậy thì chúng ta nói tiếng Anh cho vui thôi".
Sophie dẩu môi rồi tiếp tục bước đi. Khi họ bước vào Salle de Etats, cô bé đưa mắt khắp căn phòng hẹp rồi dừng lại ở một vị trí danh dự chính giữa bức tướng bên phải, nơi có một bức chân dung lẻ loi treo sau lớp plexiglas bảo vệ. Ông cô dừng lại nơi cửa ra vào và ra hiệu về phía bức tranh.
"Bước tới đi, Sophie. Không mấy ai có cơ hội tới thăm cô ấy một mình đâu".
Nén nỗi e sợ, Sophie chầm chậm đi ngang căn phòng. Sau tất cả những gì cô nghe nói về bức họa Mona Lisa cô cảm thấy như đang đến gần long nhan cô ấy. Tới trước tấm plexiglas, Sophie nín thở và ngước lên, và ngay lập tức, cô bé cảm nhận được tất cả.
Đường Hoa Hồng, Silas nghĩ. Hội kín đó giấu viên đá đỉnh vòm dưới đường Hoa Hồng.
Chập tối, khi Silas nói với Thầy Giáo rằng viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion được cất giấu bên trong nhà thờ Saint-Sulpice, thầy đã tỏ ý nghi ngờ. Nhưng khi Silas nói thêm rằng các thành viên của hội này đều đã nói cho hắn biết vị trí chính xác, liên quan đến một dải đồng xuyên suốt nhà thờ Saint-Sulpice, thì thầy hức lên một tiếng, ngộ ra: "Vậy là con nói về Đường Hoa Hồng?".
Thầy nhanh chóng nói cho Silas biết về kiến trúc xây dựng kì lạ của nhà thờ Saint-Sulpice - một thanh đồng dài, mảnh đã chia nhà thờ thành hai nửa tạo ra một trục bắc-nam hoàn hảo.
Nó là một kiểu đồng hồ mặt trời thời cổ, là một vết tích của đền thờ ngoại giáo từng có thời ngự ở chính chỗ này. Các tia mặt trời, chiếu xuyên qua lăng kính trên bức tường phía nam, mỗi ngày một dịch xuống, chỉ sự trôi chảy của thời gian, từ đông chí qua hạ chí.
Cái dải bắc-nam đó được biết đến dưới cái tên Rose Line: Đường Hoa Hồng. Trải qua hàng thế kỷ, kí hiệu Rose (Hồng) đã gắn liền với những tấm bản đồ và với việc dẫn đúng đường, chỉ đúng hướng. Vòng Hồng ghi hướng địa bàn - được vẽ trên hầu hết mọi tấm bản đồ - xác định các hướng bắc, đông, nam, và tây. Thoạt kỳ thuỷ được gọi là Hoa Hồng Gió (Wind Rose), nó chỉ hướng của ba mươi hai loại gió, thổi từ những hướng của tám ngọn gió trưởng, tám ngọn gió nhị phân và mười sáu ngọn gió tứ phân. Khi được đồ thị hóa trong một hình tròn, ba mươi hai điểm này của la bàn trông giống hệt một bông hồng ba mươi hai cánh. Cho tới tận ngày nay, công cụ định hưóng cơ bản trong hàng hải vẫn được gọi là Rose Compass (La bàn Hoa Hồng), hướng cực bắc của nó được đánh dấu bằng một đầu mũi tên… hay phổ biến hơn là kí hiệu hoa loa kèn.
Trên quá địa cầu, một Đường Hoa Hồng cũng được gọi là kinh tuyến là bất kỳ một đường thẳng tưởng tượng nào nối cực bắc với cực nam. Đương nhiên, số Đường Hoa Hồng là vô hạn bởi vì từ mỗi điểm trên quả địa cầu đều có thể vẽ một kinh tuyến đi qua, nối cực bắc và cực nam với nhau. Vấn đề đối với các hoa tiêu thời xưa là đường nào trong các đường này là Đường Hoa Hồng đường kinh tuyến số không đường mà người ta lấy làm gốc để đo các đường kinh tuyến khác.
Ngày nay, đường đó nằm ở Greenwich, Anh.
Nhưng không phải bao giờ nó cũng ở đó.
Rất lâu trước khi chế định Greenwich là kinh tuyến gốc, thì kinh tuyến số không của trái đất đã đi qua Paris, đi qua nhà thờ Sain-Sulpice. Thanh đồng đánh dấu ở nhà thờ Saint-Sulpice trở thành một đài tưởng niệm kinh tuyến gốc đầu tiên của thế giới, và mặc dù Greenwich đã tước đi của Paris vinh dự ấy vào năm 1883, đường Hoa Hồng ban đầu vẫn còn hiển thị đến tận ngày nay.
"Vậy là truyền thuyết đó là sự thật". Thầy Giáo nói với Silas. "Người ta nói viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion nằm dưới Đường Hoa Hồng".
Lúc này, vẫn quỳ trên một chiếc ghế, Silas liếc quanh nhà thờ và lắng tai nghe để chắc chắn rằng không còn ai ở đây.
Trong một thoáng, hắn nghĩ là nghe thấy tiếng xột xoạt trên ban công hợp xướng. Hắn quay người và nhìn chăm chú trong vài giây. Chắng có gì cả.
Mình chỉ có một mình thôi.
Đứng dậy, hắn quay mặt về phía ban thờ và xuống gối ba lần. Rơi quay sang trái, hắn đi theo thanh đồng về phía bắc dẫn đến bia tưởng niệm.
Cùng lúc đó, tại Sân bay quốc tế Leonardo da Vinci ở Roma, lốp xe xóc nẩy mặt đường băng làm giám mục Aringarosa tỉnh giấc.
Mình đã ngủ quên mất, ông nghĩ ngạc nhiên thấy mình vẫn đủ thanh thản để ngủ.
"Benvenuto a Roma"(1), hệ thống loa phóng thanh thông báo.
Ngồi dậy, Aringarosa xốc thẳng lại chiếc áo choàng đen và tự cho phép mình nở một nụ cười hiếm hoi. Đây là một chuyến đi mà ông sung sướng thực hiện. Mình đã thụ động quá lâu rồi.
Nhưng đêm nay, quy tắc đã thay đổi. Chỉ năm tháng trước đây thôi, Aringarosa còn lo sợ tương lai của giáo phái này. Còn bây giờ, cứ như là ý Chúa, giải pháp cho vấn đề đã tự hiện ra.
Sự can thiệp thần thánh.
Nếu đêm nay ở Paris mọi thứ diễn ra như đã định, Aringarosa sẽ sớm sở hữu một thứ sẽ khiến ông ta trở thành người có quyền lực nhất trong cộng đồng Cơ đốc.
Chú thích:
(1) Tiếng Ý trong nguyên bản: Chào mừng quý khách đến Roma