Mật Mã Da Vinci

Chương 32 :

Ngày đăng: 01:02 22/04/20


André Vernet, chủ tịch của chi nhánh Ngân hàng Ký thác Zurich đặt tại Paris - sống trong một căn hộ xa hoa phía trên ngân hàng. Mặc dù có đầy đủ tiện nghi sang trọng, ông vẫn mơ được sớ hữu một căn hộ bên sông trên đảo Saint-Louis, nơi ông có thể chen vai thích cánh với những người sành điệu đích thực chứ chẳng như ở đây chỉ toàn gặp bọn trọc phú.



Vernet tự nhủ, khi nào về hưu, mình sẽ chất đầy hầm rượu toàn vang Bordeaux quý hiếm, trang trí salon bằng một bức Fragonard và có lẽ một bức Boucher (1), và suốt ngày mình sẽ săn lùng đồ cổ và sách quý hiếm ở Quartier Latin.



Đêm nay, Vernet mới chỉ thức giấc được có sáu phút rưỡi. Mặc dù vậy, khi ông hối hả đi qua hành lang ngầm của ngân hàng, trông ông như vừa được người thợ may và húi tóc riêng điểm tô cho một mẽ ngoài bóng bẩy. Chỉnh tề trong bộ com-lê lụa, Vernet xịt một ít nước thơm vào miệng, thắt chặt ca vát lại rồi mới bước ra ngoài. Không hề lạ lẫm với việc bị đánh thức giữa đêm khuya để phục vụ những khách hàng quốc tế đến từ những vùng có múi giờ khác nhau, Vernet đã tạo cho mình thói quen ngủ theo cách những chiến binh Maasai - một bộ lạc châu Phi nổi tiếng với khả năng chỉ trong vòng vài ba giây đã có thể từ giấc ngủ say sưa nhất chuyển sang tư thế sẵn sàng chiến đấu.



Sẵn sàng chiến đấu, Vernet nghĩ thầm, sợ rằng sự ví von ấy có thể ứng vào đêm nay một cách bạo liệt lạ thường. Sự hiện diện của một khách hàng có chiếc chìa khoá vàng bao giờ cũng đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn thường nhật, nhưng người khách hàng mang chiếc chìa khoá vàng này lại đang bị Cảnh sát tư pháp truy nã thì càng là vấn đề cực kì tế nhị.



Ngân hàng này đã có đủ những cuộc chiến chống lại việc thực thi luật pháp để bảo vệ quyền bí mật riêng tư của khách hàng mà không có bằng chứ ng rằng một số trong bọn họ là những tên tội phạm.



Năm phút thôi. Mình cần hai kẻ đó ra khỏi ngân hàng trước khi cảnh sát đến.



Nếu ông hành động nhanh chóng, thì có thể khéo léo tránh được thảm hoạ sắp xảy ra. Vernet có thể nói với cảnh sát rằng quả thật những tên đào tẩu ấy có vào ngân hàng như đã báo cáo nhưng vì chúng không phải là khách hàng của họ và không có số tài khoản nên đã bị khước từ. Giá như gã bảo vệ chết tiệt kia đừng gọi cho Interpol, thì đỡ biết mấy. Rõ ràng kín đáo không nằm trong vốn từ của người bảo vệ được trả lương mười lăm Euro/giờ này.



Dừng lại ở ngưỡng cửa, ông hít một hơi thật sâu và thả lỏng cơ bắp. Sau đó cố nhoẻn một nụ cưởi dịu dàng, ông mở khóa và đẩy cửa bước vào phòng như một làn gió ấm.



"Xin chào", ông nói, mắt đảo tìm những người khách hàng của mình. "Tôi là André Vernet. Tôi có thể phục…", phần còn lại của câu nói bị tắc ở đâu đó dưới yết hầu. Người phụ nữ trước mặt ông không phải là một người khách bất ngờ như ông nghĩ.



"Xin lỗi, có phải chúng ta đã quen nhau không?", Sophie hỏi. Cô không nhận ra ông chủ ngân hàng, nhưng ông thì trong khoảnh khắc nom như vừa thấy ma hiện hình.



"Không…", ông chủ tịch ngân hàng lúng búng, "tôi không nghĩ vậy. Dịch vụ của chúng tôi là nặc danh". Ông ta thở hắt ra và cố nặn ra một nụ cười bình tĩnh. "Người trợ lí của tôi nói rằng quý cô có một chiếc chìa khoá vàng nhưng lại không có số tài khoản, đúng không? Tôi có thể mạn phép hỏi, làm sao quý cô lại có được chiếc chìa khoá ấy?".



"Ông tôi đã đưa nó cho tôi", Sophie trả lời và nhìn kĩ hơn Ông chủ tịch. Sự lúng túng của ông ta lúc này càng rõ rệt.



"Thực vậy sao? Cụ nhà đã đưa cho quý cô chiếc chìa khoá này mà lại quên không cho số tài khoản sao?".



"Tôi không nghĩ là ông tôi còn đủ thời gian để làm việc ấy", Sophie nói, "Ông tôi vừa bị giết hại đêm nay".



Lời nói của Sophie khiến ông la loạng choạng lùi lại:



"Jacques Saunière chết rồi ư?". Ông hỏi lại, mắt đầy vẻ kinh hãi. "Nhưng… như thế nào?!".



Lúc này đến lượt Sophie lui lại: "Ngài biết ông tôi?".



Ông chủ ngân hàng André Vernet có vẻ cũng kinh ngạc, dựa vào thành bàn để đứng cho vững: "Jacques và tôi là bạn thân. Chuyện xảy ra khi nào?".



"Đầu buổi tối nay. Bên trong bảo tàng Louvre".



Vernet bước đến một chiếc ghế da và gieo mình xuống đó:



"Tôi cần hỏi cả hai người một câu vô cùng quan trọng" . Ông ngước nhìn Langdon rồi lại quay sang Sophie: "Ai trong số hai người có dính líu tới cái chết của ông ấy?".



"Không ai cả!". Sophie tuyên bố. "Hoàn toàn không".



Mặt Vernet lầm lầm, ông dừng lại ngẫm nghĩ. "Interpol cho truyền ảnh hai người khắp mọi nơi. Nhờ vậy mà tôi nhận ra cô.



Các người đang bị truy nã vì tội sát nhân".



Sophie ngồi phịch xuống. Fache đã kịp cho phát thông báo của Interpol rồi sao? Dường như tay đại uý ấy có động cơ mạnh mẽ hơn Sophie dự kiến. Cô kể nhanh cho Vernet biết Langdon là ai và chuyện gì đã xảy ra trong bảo tàng Louvre tối nay.



Vernet có vẻ kinh ngạc: "Lúc hấp hối, ông ấy đã để lại một tin nhắn yêu cầu cô tìm ông Langdon?".



"Vâng. Và chiếc chìa khoá này nữa". Sophie đặt chiếc chìa khoá vàng lên mặt bàn cà phê trước mặt Vernet, úp mặt có hình con dấu của Tu viện Sion xuống.



Vernet liếc nhìn chiếc chìa khoá, nhưng không làm cử chỉ nào để chạm vào nó: "Ông ấy chỉ để lại cho cô chiếc chìa khoá này thôi ư? Không còn gì khác nữa? Một mẩu giấy chẳng hạn?".



Sophie biết cô rất vội khi ở trong bảo tàng Louvre, nhưng cô dám chắc không hề nhìn thấy một cái gì khác ẩn giấu đằng sau tác phẩm Madonna of the Rocks. "Không có gì khác đâu. Chỉ có mỗi chiếc chìa khoá này thôi".
Dừng lại trong tiếng ro ro đúng bên trên chỗ cần tìm trên sàn hầm, chiếc càng hạ xuống, một con mắt điện tử xác nhận mã vạch trên chiếc hòm. Rồi, với sự chính xác của máy tính, chiếc càng quắp lấy quai xách và nhấc bổng chiếc hòm lên theo chiều thẳng đứng. Bộ bánh răng mới vào khấc, và chiếc càng chuyển chiếc hòm sang đầu kia hầm, dừng lại trên một băng chuyền đang đứng im.



Lúc này, cánh tay càng nhẹ nhàng đặt chiếc hòm xuống và rút về.



Chiếc càng vừa rút khỏi, băng chuyền liền khởi động…



Ở tầng trên, Sophie và Langdon thở phào nhẹ nhõm khi trông thấy chiếc băng chuyền khởi động. Đứng bên băng chuyền, họ cảm thấy mình giống như những lữ khách mệt mỏi ở chỗ lấy đồ đang chờ một hành lý bí ẩn mà họ hoàn toàn không biết có gì ở bên trong.



Băng chuyền trôi vào phòng từ phía bên tay phải họ qua một khe hẹp bên dưới một cánh cửa đẩy ra kéo vào được. Cánh cửa kim loại kéo lên rồi một chiếc hòm plastic lớn xuất hiện, từ dưới sâu nhô lên trên mặt phắng nghiêng của băng chuyền. Chiếc hòm màu đen, khuôn plastic dày, lớn hơn nhiều so với tưởng tượng của Sophie. Trông nó như một chiếc hòm chở thú vật kiểng trên máy bay chỉ khác cái là không có lỗ thông khí.



Chiếc hòm dừng ngay trước mặt họ.



Langdon và Sophie đứng đó, im lặng và nhìn chằm chằm vào chiếc hòm bí ẩn ấy.



Giống như mọi thứ khác trong ngân hàng này, chiếc hòm này cũng mang đậm tính công nghiệp - móc cài bằng kim loại, một mã vạch dán trên nắp và một quai xách rất dày. Sophie nghĩ nó giống như một hòm đồ nghề khống lồ.



Không để tốn thời gian, Sophie tháo hai chiếc móc cài trước mặt cô. Rồi cô đưa mắt ra hiệu cho Langdon. Họ cùng nhấc nắp hòm, lật ra phía sau.



Bước lên phía trước, họ ngó vào trong.



Thoạt nhìn, Sophie tưởng hòm rỗng không. Rồi, cô nhìn thấy cái gì đó. Dưới đáy hòm. Độc một thứ.



Đó là một chiếc hộp gỗ đánh bóng, to bằng hộp đựng giầy với những bản lề hoa mĩ. Loại gỗ này có màu tím sẫm óng ánh dưới đường vân thô. Gỗ hồng mộc. Sophie nhận ra. Loại gỗ ông cô ưa thích. Nắp đậy có khảm hình một bông hoa hồng. Cô và Langdon bỗng nhiên nhìn nhau bối rối. Sophie cúi xuống cầm chiếc hộp, nhấc ra khỏi hòm.



Lạy Chúa, nặng thế!



Cô thận trọng bê chiếc hộp đến đặt lên chiếc bàn rộng.



Langdon đứng bên cạnh cô, cả hai người nhìn chằm chằm vào cái kho báu nhỏ bé mà rõ ràng là ông Saunière đã phái họ đến đây để thu hồi lại.



Langdon ngỡ ngàng nhìn hình khắc bằng tay khảm trên nắp hộp - một bông hoa hồng có năm cánh. Ông đã từng nhìn thấy loại hoa hồng này nhiều lần. "Một bông hồng năm cánh", ông thì thầm, "là thứ mà Tu viện Sion dùng làm biểu tượng cho Chén Thánh".



Sophie quay lại nhìn Langdon. Langdon biết cô đang nghĩ gì, và ông cũng nghĩ giống như cô. Kích thước của chiếc hộp, trọng lượng hiển nhiên của vật chứa trong đó, và một biểu tượng của Tu viện Sion hàm chỉ Chén Thánh, tất cả dường như bao hàm một kết luận khó hiểu khôn dò nổi. Chén của Chúa Kirixitô ở trong chiếc hộp này. Chuyện này là bất khả, Langdon lại tự nhủ thầm.



"Chiếc hộp này có kích thước hoàn hảo", Sophie thì thầm, "để đựng… một chiếc ly".



Đây không thế là chiếc ly được.



Sophie kéo chiếc hộp về phía mình, chuẩn bị mở ra. Tuy nhiên, khi cô di chuyển chiếc hộp, một điều bất ngờ đã xảy ra.



Chiếc hộp phát ra một âm thanh ùng ục kì lạ. Langdon ậm ừ. Hình như có chất lỏng ở bên trong?



Sophie cũng có vẻ bối rối: "Anh có nghe thấy không…?".



Langdon gật đầu, hoang mang: "Chất lỏng".



Vươn tay ra, Sophie từ từ tháo móc cài và nhấc nắp lên.



Vật ở bên trong hộp không hề giống với bất kì thứ gì Langdon đã từng nhìn thấy trước đó. Tuy nhiên, với cả hai người, một điều đã sáng tỏ ngay tức khắc: Rõ ràng đây không phải là Chén Thánh.



Chú thích:



(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: chức năng kết thúc.



(2) ATM: máy chi trả tự động. Loại máy này được đặt ngay ở các đường phố, rất tiện dụng cho người có thẻ tín dụng khi cần tiền mặt đột xuất, khỏi phải đến ngân hàng. Khách hàng tra thẻ vào máy, nhập đúng số PIN (personal Identification Number: số nhận dạng cá nhân) mới được rút tiền. Nếu 3 lần nhập vẫn không đúng số pIN, máy sẽ tự động thu hồi thẻ. Đây là biện pháp đề phòng trường hợp người sở hữu đánh mất thẻ và có kẻ bắt được mạo dụng.